Bìnhluận
về
"Sửađổi
Cáchviết TiếngViệt"
Xinmời
xem bài trước của Lê Quang
Author: Trần
Date: Tuesday 04-02-02 21:34 (PST)
Gửi Lê Quang và mọi người trong đề mục này!
Tôi viết bài này đã mấy hôm nhưng chưa gửi đi được. Hôm nọ
thấy cách hành văn của anh thì thấy có vẻ nhã nhặn nhưng theo tôi
thì nhận định vẫn còn chủ quan. Thôi thì sao cũng được! Thấy
anh có tình yêu với chữ quốc ngữ, và là người đồng trang
lứa với tôi. Và, thấy ông Đồng khen anh có phong thái nên tôi
dựa vào lời đó mà bắt chước lối hành văn cho mọi người
bớt ghét, coi như để chia xẻ một vài nhận xét để học hỏi
lẫn nhau
Trước khi trả lại lời tôi xin đính chính như sau: Nhân nói cái
chuyện phân biệt giữa tự và từ và vấn đề triệt dấu mà ông
Đồng đưa ra về đa âm tiết, tôi ủng hộ ý kiến và chỉ thử
đưa ra thử một phương pháp đối chiếu để triệt tiêu trục
dấu, nhưng vẫn giữ quy ước sẳn có của nếp cũ. Đó chỉ là
một phương pháp cho việc cải biến. Còn sau này khi bắt tay vô thì
đương nhiên phải hợp lý hóa, mỹ thuật hóa, đơn giản hóa,
hệ thống hóa cho sự sắp xếp nó khoa học hơn! Cho nên, đó chỉ
có tính cách tham cứu mà thôi! Không cần phải coi đó làm ví dụ
so sánh.
Tuy anh có tham cứu về ngôn ngữ! Có đọc sách nhưng có lẽ chưa
phân định rõ về phiên âm và văn tự. Phiên âm thì tiếng nào cũng
có, không tin thì giở tự điển Anh Việt ra thì sẽ thấy bên
cạnh mỗi từ tiếng Anh đều có phiên âm. Đây là phiên âm
chuẩn quốc tế hầu như nhà ngôn ngữ học đều dùng thức này mà
phiên âm. Ngoài ra, khi đọc sách báo Mỹ, từ nào hơi mới thì cũng
có ký hiệu để người biết cách đọc. Cho nên sự khoa học
trong vần tiếng Việt, chiếu theo tiêu chuẩn phiên âm chỉ là
một sự sắp xếp sẳn. Chúng ta không nên bị yếu tố này đánh
lận với quy ước phát triển ngôn ngữ.
Rồi thì, chữ viết Việt Nam hôm nay thì là xuất xứ từ phiên âm.
Cho nên sự tâm đắc về tính hợp lý, tính khoa học, hoặc cường
điệu lên là sản phẩm vô cùng giá trị, là quy tắc, là cấu trúc
chính là sự chiêm ngưỡng một cách thừa thãi và cục bộ.
Hợp lý! Đúng rồi chữ phiên âm thì đã quy ước chữ o có mũ thì
đọc là ô, ô với i thì là ôi chứ còn gì nữa. Nó đích thị là
phiên âm chứ cho nên mọi quy ước đã được dàn sẳn từ cái
nguyên âm đơn đầu tiên rồi. Bên Tàu họ quy định nguyên âm
“e” đọc như âm ưa bên mình. Khi thấy chữ He họ đọc là “Hưa”,
Hé thì đọc là "Hứa", Hoàng Hà thì Tàu họ phiên âm là
Huánghé, mình đọc vô thì như Hoáng Hé (âm Việt) còn Tàu họ phát
ra thì Hoáng Hứa (âm Tàu). Người Tàu thì đương nhiên họ cũng
hợp lý theo thức của họ. Cho nên, sự chiêm ngưỡng và nghiên
cứu về vần quốc ngữ là điều quá nhỏ bé. Nó chỉ tốn giấy
bút và chỉ có một vai trò rất nhỏ trong việc nghiên cứu tiếng
Việt. Vài ví dụ tương tự trong hệ chữ phiên âm của Tàu (Hanyu
pinyin) để so sánh: Như chữ Âu-Châu chẳng hạn! Tàu phiên âm là
Ou-Zhou. Người biết văn tự Latin thấy hai chữ đó thì coi như đọc
cũng gần giống nhau chứ không nhiều sai biệt. Mỗi hệ phiên âm
đều có cách riêng và có quy ước hệ thống thanh điệu riêng,
thấy vần En mình đánh e nờ en, người Tàu đánh kiểu e (ưa) n
(nứa) en (ân). Ân-Nhân = En Rén (đọc như Ân Rấn của Việt).
Chẳng có gì lạ.
Nếu cách viết đơn âm tiết của tiếng Việt bây giờ không gây
trở ngại cho việc thông tin thì chẳng ai đề nghị cải biến làm
chi! Nhưng cách viết đơn âm như bây giờ quả thực là một sở
đoản khó lòng khắc phục. Nếu không chuyển qua cách đa âm thì
đơn giản nhất là không thể nào viết một nhu liệu để chuyển
dịch từ tiếng Việt sang tiếng ngoại quốc được. Tiếng Việt
quốc ngữ, quá mới so với văn tự thế giới, cho nên phải cải
biến để khai thác ưu thế của văn tự Latin trên hệ thống thông
tin hiện đại. Tính quốc hồn quốc tuý của “quốc ngữ”
phải được xét lại để từ đó có một cái nhìn thật phóng
khoáng mà thay đổi. Cách đánh vần hợp lý theo khẩu âm Việt chính
là những quy ước đặt ra cho các nguyên âm từ ban đầu. Khi theo
ký âm của tiếng mình thì hợp lý theo khẩu ngữ của mình. Mình
đứng trên thềm mà tâm đắc so sánh độ cao của bậc thềm nhà
với ngay vườn nhà mình thì điều tâm đắc quả là khiêm tốn
trong sự cao rộng bát ngát chung quanh. Do vậy, nếu trút được xúc
cảm này về quốc ngữ, văn tự Latin của Việt Nam nếu có tham
vọng lớn hơn thì cũng có thể làm nền cho một ngôn ngữ lập trình
điện toán vv và vv cho các yếu tố tạo từ cho các khái niệm
mới phát minh, và có thể trở thành ngôn ngữ khoa học mà không
cần vay mượn tiếng ngoại tứ tung.. Hiện tại, thì nó đang
thiếu tính cấu trúc, thiếu khái niệm từ và tự, không định
vị được ngữ pháp, cú pháp vv và vv. Người Việt Nam học xong
đại học vẫn không có một khái niệm và không có gan để tạo
từ cho dù có phát minh. Không dám dịch khái niệm mới khi học
tiếng nước ngoài mà chỉ vay mượn tạm bợ đó
cũng do cách viết rời rạc không xác định được nguyên ngữ,
tiền tố, hậu tố trong từ vv và vv. Trong lúc đó người Trung
Quốc, người Mỹ họ có sở trường này ngay trong ngôn ngữ.
Trong phần tham cứu, anh có nhắc nhiều đến ngữ hệ của tiếng
Việt. Có lẽ ông Đồng đã đưa ra dẫn chứng về ngữ hệ Hán
Tạng. Thật sự mà nói khi phân ngữ hệ, thời đó có lẽ tiền
đề đã có nhưng người Pháp đó (quên mất tên) chỉ muốn gây
một sự tranh cãi bằng cách đưa ra những cụm từ như Tlum của
tiếng Miên, có nghĩa là rậm rạp tương đương với chữ Tùm Lum
của tiếng Việt. Đại khái những bằng chứng như vậy đem đối
chiếu với ngày hôm nay không còn đứng vững. Sau đó, các nhà ngôn
ngữ đều dựa vào thuyết của ông ta mà chồng chất lên. Để
rồi, sau đó lấy tiền đề về chủng tộc mới sinh ra nhữnh lý
luận như Bình Nguyên Lộc hoặc Nguyễn Xuân Quang sau này. Nói chi cũng
không bằng dẫn chứng! Thuyết Mon-Khmer bắt đầu bị nghi ngờ.
Trong một website về ngôn ngữ thế giới worldlanguage.com viết rất
giới hạn, không nói tới ngữ hệ như các sách cũ nữa:
“Vietnamese is spoken in both North and South Vietnam by about 65 million
people. Its linguistic affiliation is uncertain, and though it is sometimes
thought to be distantly related to Chinese, this remains to be proven. Like
Chinese, Vietnamese is a tonal language and it has borrowed nearly half of its
vocabulary from the Chinese. The Vietnamese alphabet was devised in the 17th
century by Catholic missionaries. It contains a complex system of diacritical
marks, some distinguishing certain vowel sounds, others indicating tone. As can
be seen in the few lines below, a letter may often contain two diacritical
marks.”
Còn sách Tàu thì viết như sau: 越南語﹕系屬未明。一說屬南亞語系孟高棉語族﹐一說屬漢藏語系壯侗語族或為漢藏語系中獨立的一支。。。文字曾采用字喃﹐現用拉丁字母
(辭海)
Việt Nam Ngữ: Hệ thuộc vị minh. Nhất thuyết thuộc Nam Á ngữ
hệ Mãnh-Cao Miên, nhất thuyết thuộc Hán Tạng ngữ hệ Tráng Đồng
ngữ tộc hoặc vi Hán Tạng ngữ hệ trung độc lập đích nhất
chi….Văn tự tằng thái dụng Tự Nam, hiện dụng La Đinh tự mẫu
(Từ Hải)
Dịch: Việt Nam Ngữ: Hệ thuộc chưa rõ, một thuyết cho là thuộc
hệ Nam Á, Mon-Khmer, một thuyết thuộc hệ Hán Tạng, Tráng Đồng
ngữ tộc hoặc là một chi độc lập trong hệ Hán Tạng. ..Văn
tự dùng qua Chữ Nôm, hiện dùng chữ cái Latin.
Tiếng Việt có một cộng đồng ngôn ngữ ở tỉnh Quảng Tây và
dân tộc Kinh là một tộc dân thiểu số ở Trung Quốc nên các nhà
ngôn ngữ học của Trung Quốc tìm kiếm nguồn gốc. Đa số đều
kết luận thuộc hệ Tráng Đồng (Tày Nùng Thái) nhưng do cái
thuyết của Tây án ngữ nên phải kết luận là không rõ là vậy.
Khi nói tới ngữ hệ Hán Tạng thì xa xưa trước khi chữ Hán ra đời
thì các tộc thuộc chủng Mongoloid đều có ngôn ngữ tương đồng.
Qua bao biến động mới sinh ra khác biệt. Nếu quan sát thì sẽ
thấy điều này. Chữ Động như Hoa Lư Động = Động Hoa Lư thật
sự Hán hóa từ tiếng Nùng (Bách Việt mà ra). Thế thì, sự giao lưu
Hán Việt (Bắc Nam) nếu có thì là hai chiều từ cổ đại. Hiểu
rõ quan hệ này thì cần gì phải mặc cảm về ngôn ngữ, dân
tộc, chủng tộc…Chúng ta có ghét người Tàu thì nên khai thác
về tinh thần quốc gia, tự chủ, lãnh thổ chứ khai thác về văn
hóa, ngôn ngữ, chủng tộc là điều vô ích vì không bao giờ tìm
được một mẫu số chung.
Dưới đây, tôi xin biên ra cho một ví dụ minh họa để sáng tỏ
đôi điều về chuyện nghiên cứu Việt ngữ. Nó quá xa xôi và thâm
trầm. Nếu như mình chỉ bồi hồi ở chổ ký âm thì sự truy
cứu không bao giờ đi xa được. Đây là bài thơ của Phạm Thái
tiên sinh (1777-1813) theo cách Thuận Nghịch Độc, đọc thuận thì là
Hán, ngược thì là Nôm:
青春鎖柳冷蕭房
錦軸停針礙點妝
清亮度蘚浮沸綠
淡曦散菊彩疏黃
情痴易訴簾邊月
夢觸曾撩帳頂霜
箏曲強挑愁緒絆
鶯歌雅詠閣蕭香
Thanh xuân khóa liễu
lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang
Thanh lượng độ tiên phù phất lục
Đạm hy tán cúc thái sơ hoàng
Tình si dị tố liêm biên nguyệt
Mộng xúc tằng liêu trướng đỉnh sương
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu tự bạn
Oanh ca nhã vịnh các tiêu hương
Chữ Nôm đọc ngược (cả Hán Việt, hài thanh, giả tá…)
香蕭閣詠雅歌鶯
絆緒愁挑強曲箏
霜頂帳撩曾觸夢
月邊簾訴易痴情
黃疏彩菊散曦淡
綠沸浮蘚度亮清
妝點礙針停軸錦
房蕭冷柳鎖春青
Hương tiêu gác
vắng nhặt ca oanh
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương đỉnh trướng gieo từng giục mộng
Nguyệt bên rèm, tỏ dễ si tình
Vàng tha thướt, cúc tan hơi đạm
Lục phất phơ, rêu đọ rạng thanh
Trang điểm ngại chăm, dừng trục gấm
Phòng tiêu lạnh lẽo khóa xuân xanh.
***Ghi chú! Tôi chỉ không
có bản gốc chỉ chuyển ngược từ ký âm sang nên chắc có sai
sót.
Thôi thì, ngoài cái độc đáo của bài thơ trên, tinh mắt một
chút thì sẽ nhìn thấy có một sự liên hệ giữa hai luồng Hán
Việt và thuần Nôm như sau:
Cẩm = Gấm
Cưỡng = Gượng
Rồi từ đây mà suy ra:
Cận = Gần
Can = Gan
Cân = Gân
Cấp = Gấp
Cổn = Gợn
Các = Gác
Kê = Gà
Ký = Gửi
Kỵ = Ghét
Ký = Ghi
Rồi thì
Vũ = Múa
Vũ = Mưa
Vân = Mây
Vạn = Muôn
Vọng = Mong
Võng = Mạng
Tử = Chết
Tự = Chùa
Tự = Chữ (cái)
Cứ theo luồng chữ cái mà suy, sau bao nhiêu biến động vẫn truy
được gốc. Cái lạ ở chổ các ví dụ trên phần theo chiếu theo
tiếng Bắc Kinh hay Pinyin đều theo một luồng phụ âm đầu nhất
định. Cho nên, như ông Đồng có nhắc, nếu cảm tiếng Tàu thì
thấy tiếng Việt là như vậy!
Để kết luận trong tinh thần thật nhã nhặn cho việc cầu học
trên diễn đàn này! Tôi mượn lời của một nhà tự nhiên học
lẫy lừng đó là Lão Tử. Lấy nhãn quan tự nhiên mà soi xét
nguồn gốc, rồi sau đó mới có thể quán chiếu chuyện riêng như
văn hóa, văn tự nước nhà. Thiếu nhãn quan thì tất cả nhận xét
kết luận sẽ bị bế tắc hết. Mà đã vô chổ bế rồi, thì
những lập luận dù có lý thì chẳng qua là ảo ngữ do sự cố
chấp chồng lên mà thành. Nói về Hán Việt, coi các ví dụ trên
thì là:
此兩者出而異名同謂之玄玄之又玄眾妙之門
(Thử lưỡng giả đồng
xuất nhi dị danh, đồng vị chi huyền, huyền chi hựu huyền, chúng
diệu chi môn.) Hai thứ là một chổ mà ra mà có hai tên khác, đều
là huyền diệu hết, huyền diệu của huyền diệu, mới sinh ra
mọi thứ (phức tạp như Hán Việt thuần Nôm đó) – Ít nhất
trong lúc này, tôi nghĩ đa phần tiếng Việt ngoài Hán Việt vẫn có
quan hệ với các tiếng Thái, Tày, Nùng và tiếng Trung Quốc. Nếu
nói thẳng điều này, mình đâu có mất tự chủ gì mà phải cố
chấp. Càng không phải dùng gắn bó mù quáng vô quốc ngữ (không
chịu cải tiến) là yêu văn hóa, trung thành với văn hóa …
Văn hóa ngôn ngữ nước ta nó vời vợi thâm trầm chứ đâu chỉ
đơn giản như lối lối ký âm đang biểu hiện. Nếu cứ theo ký
âm mà tìm về văn hóa thì chẳng thấy được gì cả, nếu lấy ký
âm mà làm điều quốc tuý thì tự bịt tai . Nếu lấy ký âm mà
định vị ngữ điệu thì là trẹo miệng, có nhiều sự trái khoái
trong thổ ngữ địa phương (nhớ là phần lớn tiếng địa phương
như Huế, Quảng Nam, Bình Định, Nghệ An … ký âm đều không
phản ánh đúng khẩu ngữ, hoặc nếu đã tiêu chuẩn hóa phát âm
thì làm chết cứng phương ngữ). Cho nên, đằng nào cũng bị
giới hạn, thôi thì phải tìm cách mà quy ước hệ thống từ
vựng đi chứ! Từ nào thuộc đa âm mà thành thì diễn theo đa âm
như kinh tế = kinhtế là chuẩn. Cái nào đơn âm thì để đơn âm.
Bây giờ có người đặt cho kiểu chữ này là chữ xỏ xâu. Nhớ
hồi đầu các nhà Nho gọi chữ quốc ngữ là tuồng chữ dây xích
chó thì có sao đâu? Xỏ xâu hay là dây xích chó đều là một
thứ, tiếc chi mà không sử dụng và phát triển nó cho khoa học hơn
một tí!
Xinmời
xemtiếp
Ðọcthêm
ýkiến độcgiả khác
|