Thầy
Tôi
và Việc Tuchỉnh Văntự
Lương
Thư Trung
Boston ngày...
tháng 12 năm 2001.
Thưa
chị Hiền,
Đã khá
lâu, có gần mười năm trời, tôi mới lại nhận được
lá thư của chị gởi kể từ khi tôi xa làng quê và trường
cũ. Trong thư chị có đặt ra cho tôi câu hỏi là
"Anh có gặp lại vị thầy cũ nào của anh ở bên
ấy không? Ở đây tôi lâu lắm rồi, không gặp lại em
học trò cũ nào từ khi về Sài Gòn. Nghề "đưa đò"
nhiều lúc cũng buồn anh nhỉ !"
Đọc thư
chị, tôi rất cảm thông với cái nghề dạy học hơn
hai mươi bảy năm của chị và tôi xin được chia sẻ cùng
chị về những tâm tình của vị giáo sư Việt văn của
tôi hơn bốn mươi năm về trước, mà thật may mắn tôi
được quen biết với con của Thầy và có thư thăm cùng
trao đổi với Thầy hồi năm ngoái.
Thầy tôi,
cụ Hoài Nguyên, năm nay đã 86 tuổi rồi và còn non tháng
nữa Thầy bước vào tuổi 87. Đôi bàn tay Thầy lúc nào
cũng run run, yếu ớt, thế mà Thầy vẫn lần từ nút
chữ trên bàn đánh chữ của máy điện toán với những
suy nghĩ làm cách nào tu chỉnh lại văn tự chữ quốc
ngữ. Những suy nghĩ này được Thầy viết ra thành
nhiều chương và dự định in thành sách nhằm giới
thiệu với các bậc thức giả cùng các thế hệ trẻ
Việt Nam.
Trước
khi giới thiệu về đề nghị của Thầy, tôi xin được
nhắc qua một chút về thân thế của Thầy. Là một giáo
sư Việt văn trường trung học Thoại Ngọc Hầu và các
trường tư thục ở Long Xuyên vào thập niên 50-60, rồi
sau đó Thầy về dạy tại các trường trung học ở Sài
Gòn cho tới tháng Tư năm 1975, nay Thầy định cư tại
Canada. Ngoài công việc dạy học, Thầy luôn luôn suy nghĩ
về tương lai tuổi trẻ Việt Nam. Trong một lá thư gửi
cho tôi vào tháng 7, năm 2000, Thầy viết :
" Tám
mươi lăm tuổi đời, bề ngoài tuy còn tàm tạm, nhưng bên
trong thật đã nát bấy, nát vì nhiều duyên căn khác hơn
là những hao mòn của cơ thể. Bốn mươi ba, bốn mươi
tư năm trước ông già cũng chẳng còn trẻ trung gì mà hành
nghề vẫn cứ bên lề nghi thức; quần áo chỉ vừa đủ,
không xú xứa; cái caravate vì hiệu trưởng nhăn nhó quá
phải đeo cho qua mắt, đến cổng trường mới quàng vào,
vào qua cửa lớp lại tháo ra đút túi quần. Dạy Việt
văn, hiếm thầy dùng đến phấn, nhưng riêng ông thì sau
giờ dạy, đầu tóc, quần áo cứ như người khuân vác
ở nhà máy xay bột vì ông dạy là ông vẽ, bôi bôi, xóa
xóa; hình dung cả những ý trừu tượng bằng một biểu
đồ.
Ông già
nhớ lại : thời ấy, những chiều không dạy, đi xuống
phố về, qua cầu Hoàng Diệu ngược chiều với dẫy dài
học sinh trai gái lớn có, nhỏ có, từ trường Thoại
Ngọc Hầu và các trường tiểu học đang líu ríu nườm
nượp ra về, ông dừng bước đứng nhìn, bần thần, lòng
vui lo lẫn lộn:"Ta làm gì cho những công dân nụ hoa
này trước một thời cuộc đang cuồn cuộn sóng
ngầm."
Trong
một lá thư khác, viết vào tháng 8 năm 2000, Thầy tôi
viết về những ngày dạy học:"Tôi thiệt thòi hơn
anh nhiều. Trong căn nhà văn hóa "làng ta" ấy, tôi
chỉ là khán giả, bàng quan nhiều hơn là thành viên,
dầu cho là thứ khán giả say chìm trong cảnh, nhiều khi
nước mắt chan hòa hơn cả người trong cảnh. Tôi đã
sống bằng nông tang, nhưng không nếm cảnh nông dân vợ
con nheo nhóc, được bữa sáng lo bữa tối. Tôi cũng đã
lao đầu vào cuộc chiến và rồi cũng bỏ cơ nghiệp, tài
sản, di cư, di trú, nhưng thực sự chiến tranh chưa tàn
phá đời tôi. Mà cả ngay khi sống "tử tế", tìm
trung dung trong nghề dạy học, tôi cũng chẳng yên bề hành
nghề... Như anh biết, tôi vô duyên với học sinh Sài Gòn
mà cả giáo chức ở đây mà tôi tự biết không có hân
hạnh là đồng nghiệp... Tôi rất lận đận trong chức
năng dạy học; vào nghề mà tôi không bám lấy đó làm
sinh kế. Tới mấy năm đầu thập niên 70, chán nghề tôi
lên rừng khẩn hoang và đi cày thuê ở đồng bằng Sa Đéc
- Vĩnh Long, vào sâu cả những nơi hoang vắng như Tân Phú
Trung, Tân Lượt sát Tiền Giang, nhiều nơi chỉ tới được
bằng xuồng, vì đường bộ bị nước xoáy đã lở
hết, cây cối um tùm, đổ nghiêng rạp xuống sông. Vào
rừng rẫy như vậy, tôi chia sẻ thoải mái những gian
truân, không những với nông dân khách hàng mà còn với
nhiều giới khác ở làng mạc..."
Trên đây,
tôi lược ghi lại vài hàng về những chia sẻ của
Thầy về những gian truân của một vị giáo sư luôn dành
lòng mình cho các "công dân nụ hoa" giữa những
ngọn sóng ngầm. Một trong những ý nguyện ấy cứ ấp
ủ mãi trong lòng Thầy và rồi khi tuổi đời ở bậc thượng
thọ rồi mà Thầy vẫn không nản chí bỏ dở những tâm
tư Thầy đã đeo đuổi. Thầy đã nghiên cứu nhiều tư
tưởng trong dòng sống thuần Việt, rồi biên soạn
nhiều tài liệu, sách vở nói về văn hóa để lại cho
mai hậu. Ở đây trong phạm vi lá thư ngắn gởi về
chị, tôi xin nêu lên một trong những điều Thầy mơ ước
là việc "tu chỉnh văn tự", một vấn đề khá
mới giữa nền văn học chữ viết hải ngoại này.
Theo lời
mở, Thầy đặt ra câu hỏi là "Tại sao đăït lên
việc sửa đổi ? "
Và Thầy
đã giải đáp:"Sửa đổi là nhu cầu đương nhiên
của thế tiến hóa, nhất là ở hiện đại. Chữ Việt
không sửa đổi không đáp ứng đà tiến hóa đang diễn
ra và không gánh được vai văn tự dân tộc thống nhất
các quần sinh lớn nhỏ người Việt sinh hoạt tản mản
trên khắp thế giới mà chủ yếu là những thế hệ
trẻ kế tiếp nhau, đang cần nó để bảo toàn căn cước
và phát huy nếp sống Việt."(*)
Sau
những dẫn giải các lần sửa đổi cách viết chữ
quốc ngữ hồi mới ra đời do Trương Vĩnh Ký và Huỳnh
Tịnh Của nhằm chỉnh lại những mẫu tự ghép không đúng
với phát âm Việt, như sửa mẫu tự "bl" thành
"tr" (Ví dụ: Chúa Blời thành Chúa Trời). Rồi
tiếp theo thời kỳ chữ quốc ngữ phát triển thành văn
tự chính, những học giả lòng còn nặng với chữ
viết đã nhắm vào tu chỉnh "chính tả từ
ngữ" sao cho chính xác hơn. Về điểm này các vị dùng
"gạch nối" để nối liền các từ đa âm.( Ví
dụ như gập– ghềnh, đoạn – trường...); nhưng
những khiếm khuyết trong chữ viết ngày nay vẫn còn
nhiều và Thầy đã nêu ra bảng tóm tắt đề nghị
những tu chỉnh chính tả cần thiết như sau:
"1-
Việt ngữ không phải là đơn âm; những từ đơn đa-âm
và những từ kép đều được viết các âm ngữ hoặc
liền đi hoặc có gạch nối ở giữa, ví dụ:
"quạnhquẽ, rãrời"...
2- Tám
phụ âm được thay thế để loại những phức tạp gây
khó vô ích cho trí nhớ và khiến chính tả ngắn gọn hơn:
* Z thay
cả cho D (zê) và Gi.
Ví dụ :
"za-záo, záo-zục" (gia-giáo, giáo-dục)
* D thay
Đ
Ví dụ :
dường dến dây khó-khăn, khuất-khúc lắm (đường đến
đây khó khăn, khuất khúc lắm).
* K thay
cả C và Q
Ví dụ :
kon-kông dậu trên cây gạo, kó kẻ định bắn (con công
đậu trên cây gạo, có kẻ định bắn).
* G thay
cho Gh (hoàn toàn đọc cứng "gờ")
Ví dụ :
thằng bé gầy-gò, gẻ-lở, thấy mà gê (thằng bé
gầy-gò, ghẻ-lở, thấy mà ghê)
* Ng thay
cho Ngh. Ví dụ : ngề- ngiệp,
ngiện-ngập...(nghề-nghiệp, nghiện-ngập)
* F thay
cho Ph. Ví dụ : fiềnfức, fanhfui, fè-fỡn (phiền phức,
phanh phui, phè-phỡn)
3- Viết
"ik" thay cho "ich". Ví dụ : vô ik, lợi ik
(vô ích, lợi ích) để giữ nguyên một dạng với
"ak, ok, uk, ưk" (hiện nay viết ac, ốc, uc, ức)
4- Không
đánh dấu sắc ( ' ) thừa trên những âm ngữ tận cùng
bằng một trong bốn phụ âm : "k"(c),
"ch", "p" và "t".
Ví dụ :
hâp-tâp , khach-khứa, thưk-ăn hêt sạch....( hấp-tấp, khách-khứa,
thức ăn hết sạch).(*)
Ngoài ra,
trong bản thảo quyển "Ba vấn đề khởi đầu văn hóa
Việt trên thế giới" mà Thầy gởi cho tôi, Thầy còn
đề cập nhiều vấn đề quan trọng khác như nên gọi
"tông giáo" thay vì gọi "tôn giáo"như
từ xưa đến nay, vấn đề "Tông giáo và tư tưởng
gốc của người Việt"; "Tông giáo Việt trong
việc tiếp thâu những tông giáo khác"; "Vị
thế Việt trong văn hóa Trung nguyên"; "Việt Bách,
Việt Hán và Việt Âu Lạc". Với 384 trang sách, mà
Thầy đã mở ra cho đứa học trò cũ của Thầy hơn
bốn mươi năm về trước nhiều vấn đề cần kíp mà tôi
phải học hỏi thêm nhiều dù nay tuổi đời của mình
không còn trẻ trung gì .
Nhớ ngày
xưa Thầy dạy mình học chữ và ngày nay khi Thầy ở vào
bậc thượng thọ rồi, Thầy lại còn nhắn nhủ học trò
xưa những điều Thầy chưa dạy hết lúc ở trường.
Nhớ mà thương và biết ơn Thầy biết chừng nào. Trong
lời kết lá thư, Thầy đã viết thật cảm động:
"Nói
chuyện thì phải ra câu, đầu cuối mạch lạc, nên bắt
buộc phải có những chủ từ miễn cưỡng xưng "tôi",
miễn cưỡng xưng "bút hiệu", chứ thật sự có
u mê chăng nữa thì với một kẻ già nua, cơ thể mỗi
ngày một tàn héo trông thấy, thời gian đâu còn để
cho hình nét và màu sắc mà đòi tô vẽ một cái tôi đã
mãn cuộc. Còn chăng là cái "chúng ta". Chính vì
tương lai mà tôi đãi lọc hiện tại và khai triển quá
khứ , muốn Dòng Sống phục sinh tươi tốt, cùng với
nhiều dòng khác mà tươi tốt muôn màu, chứ khờ dại gì
mà mất công trang trí căn nhà đã mục. Như tôi nói
trong bài tựa tập một, đây chẳng phải việc một người
làm, cho nên mong ai đừng chú ý quá đến từ ngữ
"Tôi"; nó nói sai lạc nhu cầu của việc làm...
Bây giờ chắc anh rõ, sức tàn, lực kiệt mà sao tôi không
bỏ cuộc ..."
Thưa
chị Hiền,
Tình
thầy trò bây giờ, chị cho biết không bằng thế hệ mình,
học trò Sài Gòn không ngoan bằng học trò miền quê hay
dưới tỉnh. Điều này cũng dễ nhận chị Hiền à. Cái
nếp nhà quê, sống ở làng là cái nôi văn hóa Việt mà!
Xa cái nôi ấy là xa cái cội nguồn rồi. Nói gì bây
giờ, mà ngày xưa Phan Khôi, tác giả bài thơ Tình Già và
cùng nhiều tiểu luận khác thời ấy cũng có nói đến
cái tình thầy trò ngày xưa cũng bị văn minh làm mai
một đi nhiều qua bài "Thầy trò đời nay với thầy
trò đời xưa" trên tuần báo Phụ Nữ Tân Văn số
98 ngày 3 tháng 9 năm 1931.(**)
Trong báo
Văn số 59, tháng 11 năm 2001, mục "Sổ tay", nhà
văn Nguyễn Xuân Hoàng có viết kể lại lần về thăm
thầy củ, nhà văn Cung Giũ
Nguyên, tác
giả quyển "Kẻ Thừa Tự", qua một đoạn ghi
thật vô cùng cảm động :"Thầy đã già. Nhưng người
học trò năm xưa giờ cũng đâu còn trẻ. Thầy hỏi :
Anh về bao giờ? Tôi nắm tay Thầy. Ánh sáng của ngọn
điện yếu không soi rõ khuôn mặt Thầy. Thầy bảo : Anh
vào đây ! Tôi bước theo Thầy.... Thầy hỏi : Anh đã có
cuốn này chưa ? ... Thầy mở trang đầu cuốn sách, cúi
xuống viết :
"Mến
gửi
Nguyễn
Xuân Hoàng
Nha Trang
10-8-2001
Cung Giũ
Nguyên"
Cuối
chữ ký bị nhòe một giọt nước. Dưới chữ ký là
một đường vạch cong và mạnh."(***)
Danh từ
"Thầy" luôn được viết hoa chị Hiền à, không
thể viết khác được. Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã
viết vậy.. Và tôi từ hồi nào đến giờ cũng muốn
bắt chước viết vậy.
Trong thư
chị viết, chị còn hỏi tôi về văn học hải ngoại,
về những tác phẩm văn học nào tôi đã đọc trong năm
vừa rồi ? Câu hỏi thật thú vị vì tôi vốn thích đọc
sách từ hồi còn đi học chị Hiền à . Như chị biết
hồi còn ở nhà, lúc chị vào nhà tôi thăm chơi hay
những lần gặp chị ở trường, tôi thường hay khoe
với chị về những cuốn sách quí dù có hơi xưa. Riêng
bên này, dù nơi tôi đang ở quá xa xôi các trung tâm văn
hóa Việt như dưới California hay vùng Hoa Thịnh Đốn, nhưng
tôi cũng cố gắng nhờ mua các quyển sách mình thích. Đặc
biệt, tôi may mắn được đọc quyển biên khảo về
Phật giáo của giáo sư Nguyễn Văn Phú, sách dày 45 trang
mà hết sức súc tích, rạch ròi về tư tưởng một tôn
giáo lớn, gần gũi với người Việt mình, đó là Phật
Giáo.
Vì lá thư
đã dài, nên không tiện ghi lại đây những cảm nhận
chi tiết để chia sẻ cùng chị , đành hẹn chị dịp khác.
Ở Sài Gòn, chị có đọc những sách gì mới, chị có
thể cho tôi vài tin tức với nhé. Tôi cũng có mua được
cuốn Tự Điển Hán Việt Từ Nguyên của Bửu Kế do nhà
xuất bản Thuận Hóa phát hành năm 1999, để biết rõ căn
nguyên của các chữ Việt Hán mà mình hay nói, hay dùng
thường ngày nhưng nhiều lúc không biết đường đâu mà
mò ra cái gốc. Nhưng có điều này cũng muốn thưa với
chị là qua bộ Tự Điển Hán Việt Từ Nguyên dày tới
2812 trang, dù tác giả và gia đình hết sức công phu
trong việc biên soạn, in ấn , nhưng tôi thấy có vài
thiếu sót nhỏ, xin ghi ra đây, nếu tiện xin chị viết
vài dòng cho nhà xuất bản Thuận Hóa, hy vọng như một
chút ý kiến nhỏ nhoi của một bạn đọc xa từ bên này.
Số là tôi tìm chữ "ngã" nghĩa là "ta"
ở trang 1206 hoài không có chị à! Như vậy cho nên trong
tự điển này mất luôn một loạt từ ngữ như "ngã
bối", "ngã kiến", "ngã sinh", vân...
vân...
Thêm
nữa, khi giải thích các bộ đi kèm chữ gốc, soạn
giả chỉ giải nghĩa một bộ mà thôi; phần còn lại mình
phải tự tìm thêm trong một bộ tự điển Hán Việt khác;
đây cũng là một trở ngại cho người tra cứu vì mình
đâu có rành hết các bộ chữ Hán.
Thiếu sót
khác là khi giải thích chữ "tứ" với bộ
"tâm" có nghĩa là "phóng túng" (trang
1902), đến các chữ "Tứ Tình" nghĩa thả lỏng
tình dục, "Tứ Túng" nghĩa buông lung không kềm
chế, "Tứ Ý" nghĩa tự ý muốn làm gì thì làm
(trang 1902), phần chữ Hán, bản in lại in chữ
"tứ" với bộ "vi", 5 nét, có nghĩa là
bốn, thay vì phải viết chữ "tứ" với bộ
"tâm", 10 nét. Đó là một vài lổi nhỏ mình tình
cờ gặp, nhưng cũng làm mình hơi nghi nghi các chữ khác.
Do đó mà việc tra cứu các từ ngữ trong Tự Điển Hán
Việt Từ Nguyên phải hết sức cẩn trọng và kỹ càng.
Nếu được nhà xuất bản xem xét lại những lỗi nhỏ
này thì quí lắm và có ích cho bạn đọc lắm.
Tôi bây
giờ cũng như ngày còn nhỏ, hai quyển sách giúp tôi
nhiều nhất, đó là cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư và Minh
Tâm Bửu Giám mà đi đâu tôi cũng cố gắng mang theo không
rời. Ở đó mình học cả đời vẫn chưa hết những điều
hay, nói gì những triết lý cao xa.
Và để
kết thúc lá thư này, tôi xin ghi lại bài thơ "Gom
Sức Lớn" của Thầy tôi, được viết theo cách
"tu chỉnh văn tự" mà Thầy đã đề xướng:
"Gom
sưk lớn"
"Tuổi
zà, việk lớn, ngĩ về xa
Tiếp sưk,
chung lưng kó mọi nhà.
Duôk-sáng
tổ-tông không dể tăt.
Tươnglai
sinh-loại tính dường ra.
Chínhtrị
kậy gì koanh miệng chén?
Môisinh nào
phải chuyện ngoài za?
Dỗi
Sống kêt- doàn gom sưk lớn;
Thái-hòa
, ta zựng Hội Hoàng-hoa."
(Hoài
Nguyên)
Tôi xin
ghi lại bài thơ theo cách viết quen thuộc:
Gom sức
lớn
Tuổi già,
việc lớn, nghĩ về xa
Tiếp
sức, chung lưng có mọi nhà.
Đuốc-sáng
tổ-tông không để tắt.
Tương
lai sinh-loại tính đường ra.
Chính-
trị cậy gì quanh miệng chén?
Môi sinh
nào phải chuyện ngoài da?
Đổi
Sống kết đoàn gom sức lớn;
Thái- hòa,
ta dựng Hội Hoàng- hoa.
Hoài
Nguyên
Như trung
thành với đề nghị "tu chỉnh văn tự" của mình,
Thầy tôi trong mọi viết lách, thư từ, kể cả bản
thảo cuốn Ba Vấn Đề Khởi Đầu Văn Hóa Việt Trên
Thế Giới, cụ đều viết theo lối tu chỉnh mới như bài
thơ vừa rồi. Việc "tu chỉnh văn tự" không
phải là việc dễ dàng được chấp nhận, nhưng đưa ra
được cách tu chỉnh như thế nào, tại sao phải tu
chỉnh với một người suốt đời suy tư về ngọn
nguồn chữ quốc ngữ mình như Thầy, đến lúc tuổi
trời gần 90 rồi mà vẫn còn canh cánh bên lòng, quả là
một điều không phải ai cùng nghĩ và cưu mang như Thầy
được!
Thăm
chị mạnh và chúc chị năm mới luôn an vui. Hẹn lá thư
sau sẽ viết nhiều hơn...
Kính thư,
Lương
Thư Trung
haitrau7@yahoo.com
Chú thích:
(*)
Bản thảo "Ba Vấn Đề Khởi Đầu Văn Hóa Việt Trên
Thế Giới" của Hoài Nguyên, trang 77.
(**)
"Mười Ba Năm Tranh Luận Văn Học" của Thanh Lãng,
trang 89, quyển 2, nhà xuất bản Văn Học, 1995.
(***)
Tạp chí VĂN số 59, tháng 11 năm 2001, California (Hoa Kỳ),
trang4 mục "Sổ Tay".
Xinmời xem
Thư
gởi Lương Thư Trung - Hoài An
|