Phiếmluận
về thơ Hồ Xuân Hương
Bắc Giang
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Tôi khôngphải là thisĩ, cũng chẳngphải là
..nhàthơ, phòng thơ, hay building thơ gìcả nhưng
cứ mỗilần đọc hai câu trên là..tức
lộnruột, huyếpáp lên hừnghực. Ðấylà tôi đang
sống ở một xãhội vănminh của thếkỷ thứ
haimươi mốt với quanniệmsống thật phóngkhoáng,
cởimở, namnữ bìnhquyền, nếukhôngmuốnnói
trọng nữ, khinh nam. Ðiều làm tôi khóchịunhất
là tháiđộ ngạomạn, trịchthượng của tácgiả
khi dùng chữ "chị" trong thơvăn của mình,
nghe nó ..tức anhách làmsaoấy! Tôi đã đượcđọc
rất nhiều thơ từcổ chíkim, từđông sangtây mà
chưahề thấy bấtcứ một tácgiả nào dám ..ngôngcuồng
như bà Hồ Xuân Hương. Thử tưởngtượng nếu bà
Ðoàn thị Ðiểm hay bà Huyện Thanh Quan cũng xưng
CHỊ thì còngì là thểthống, khuônphép nữa? Ngượclại
giòngthờigian vàitrăm năm trước, các cụta với
quanniệm cổhủ:
Nhất nam viết hữu
Thập nữ viết vô
bà Hồ Xuân Hương đã.. phạmthượng mộtcách
nặngnề, nếu có đihọc (bà bỏ học năm 13
tuổi vì bố mấtsớm) và được đithi chắc bà cũng
sẽ cùng sốphận với biếtbao sĩtử thờiđó:
Thi không ăn ớt thế mà cay!
Vì đã phạmhúy, phạm trườngqui, dám khinhthưòng
các cụ ..taito mặtlớn, bằngcấp đầymình, vănthơ
lailáng! Ðiềuđó cũng dễhiểu tạisao là một
nữsĩ cótài, cũng có chồng là quan Triphủ (ông
Phủ Vĩnh Tường) mà bà khôngđược trọngvọng,
ngồi chiếu trên, thơvăn khôngđược làm khuônmẫu
giảngdạy trong các trường trunghọc như bà
Huyện Thanh Quan, Bà Ðoàn thị Ðiểm. Hơnthếnữa,
bà có hai đờichồng là ông Tổng Cóc:
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Ngàn năm khôn chuộc dấu bôi vôi.
và ông Phủ Vĩnh Tường:
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
Mà bà khôngbaogiờ được vinhdự mang tên
chồng trong lốixưnghô thôngthường của ngườiViệtnam
khi lậpgiathất, hoặc chứctước mà đứcôngchồng
đãcó trong xãhội như bà..Tổng Cóc hoặc
lịchsự hơn nữa : bà Phủ Vĩnh Tường, cũng như
bà Huyện Thanh Quan, mà gọi bằng một cáitên
tục cộclốc: Hồ xuân Hương!
Tôi thấy ởđây có sự ..unfair của các cụ
thờixưa. Nếu giảdụ bắtđầu ngàyhômnay, từ dòngchữ
này tôi gọi bằng ..bà Tổng Cóc chắc chẳng ai
biết tôi muốn nóiđến nhânvật nào trong vănhọcsử
Việtnam, mà còn làmtròcười cho thiênhạ! Nóiđến
sựnghệp vănchương, phải thúthật, mặcdù các
cụta bềngoài không tánthành cholắm nhưng tronglòng
vẫn nểphục với lối làmthơ lãngmạn, dídỏm,
chuachát, mỉamai, tiếulâm (nếu khôngmuốn nói là
hơi..tục), một trườngphái mà bà là Giáochủ mà
khôngcó giáodân! Với hai đờichồng đều làm
quan lớn, không concái hủhỉ lúc tuổigià, đếnkhi
chồng chết lại trắngtay mở quánnước bênđường
mưusinh quangày, phải nói bà không những là người
vănhay chữtốt mà cònlà người biết tựlập, tháovát,
khôngphải là những conkýsinhtrùng lúcnhỏ
sốngnhờ chamẹ, lớnlên nhờ chồng, chồng chết
nhờ con! Trong cuộctranhsống hàngngày, một thângái
"dặmtrường" quanhquẩn bên quánnước bà
đã gặp biếtbao vănnhân thisĩ đươngthời mượn
trà, mượn rượu tántỉnh, suồngsã như trườnghợp
ông Chiêu Hổ và đã bị bà chọcxỏ:
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chỗ ấy hang hùm chớ mó tay!
Cáihay của thơ là bà đã dùng tên Hổ (tức là
Hùm) để chỉ cái "ấy", địadanh khôngđược
thanhtao cholắm! Và cũng cáihay của bà là đã
phảnkháng một cách mãnhliệt rất.. nghệsĩ!
Này này chị bảo cho mà biết
Chỗ ấy hang hùm chớ mó tay!
Không như congái thờinay chỉ biết ..say NO! NO!
mộtcách yếuớt!
Nóivề cuộctình của nữsĩ với ông Phủ Vĩnh
Tường (chỉ vỏnvẹn có 27 tháng) tuy ngắnngủi
nhưng cũng nhiều giaithoại, điểnhình là trong
một ngày ông Phủ vắngnhà, có ngườiđànbà tên
Nguyễn thị Ðào đệđơn lên quanphủ xin lydị để
lấychồng khác, sau một hồi trahỏi, lại gặplúc
thihứng tràntrề, bà phóngbút chấpthuận:
Phó cho con Nguyễn thị Ðào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng "xuân bất tái lai"
Cho về kiếm chút, một mai kẻo già!
Tôi thíchnhất lốidùngchữ hómhỉnh, dễthương
của bà trong thơ mà hầunhư ítcó thisĩ nào cókhảnăng
đưavào thơ của mình nếu khôngcó một bộóc
vừa thôngminh vừa khôihài như chữ "khéokhéo"
rấtư ..bắckỳ trong:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
hay chữ "kiếmchút" nửaúp nửamở làmcho
ngườiđọc phải dùng trítưởngtượng mộtcách
thíchthú trong:
Cho về "kiếm chút" một mai kẻo già!
hoặc chữ "leolẻo" bìnhdân, quêmùa. Tôi
mở tựđiển của Ðào Văn Tập, Nguyễn Văn Khôn,
Ðào Duy Anh.. vânvân và vânvân, cũng không tìmra
chữ "leolẻo" mà chỉ thấy mấy chữ leocây,
leotrèo, leolét vôduyên!
Riêng đặcbiệt với ông Cống Sinh vừa mới
thiđỗ, xinphép làmthịt trâu khao hàngxóm lánggiềng
, bà phê trên đơn:
Người ta thì chẳng được đâu
Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm!
Chữ "ừ thì" ởđây lại rất thânmật,
giảndị, không kháchsáo thườngdùng cho những người
nganghàng -- trong trườnghợp này bà Phủ Vĩnh Tường
cho ông Cống Sinh được nganghàng về phươngdiện
chữ nghĩa -- khácvới trườnghợp "con"
Nguyễn thị Ðào, một đứa nôngdân nghèohèn vôhọc:
Phó cho "con" Nguyễn Thị Ðào
Nóivề tài ứngđối thơvăn của bà, chắc khôngai
cóthể sánhbằng, vừa lanhlẹ, vừa dídỏm.
Truyện kể một hôm nữsĩ đichơi gặp trờimưa
trượtchân ngã , người lấmlem, chân xõngxoài dướiđất,
hai tay giơ lêntrời, bạnbè, kháchkhứa đượcphen
cười thỏathuê, bà từtừ đứngdậy đọc hai câuthơ
chữathẹn:
Dang tay với thử trời cao thấp
Soạc cẳng đo xem đất vắn dài.
Nếu ở trườnghợp các côgái khác, chắc vì
mắccở sẽ đứngdậy .. khócròng, hoặc bỏchạy
mộtmạch vềnhà máchmẹ! Nhưng thơ Hồ Xuân Hương
được nhiều người bếtđến và làmđềtài
tranhluận từ trămnăm nay khôngphải là những bàithơ
trên mà là những bài thanh-tục, tục-thanh như bài
"Quảmít" , " Oác nhồi", "
Ðánhđu", " Ðèo BaDội" ...
Thúthật, nếu bâygiờ cho tôi viết tậplàmvăn
với đềtài " trò hãy tả quảmít" chắc
tôi õ..bítịt chứ chưa cầnphải làmthơ tả
quảmít! Nữ sĩ chỉ với 4 câu ngắnngủi đã
diễntả đượchết quảmít mà lạicòn làmcho ngườiđọc
liêntưởng đến "những chuyện" thầntiên
đã bị.. dồnnén từ baonăm trong tâmkhảm:
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mắn mó, nhựa ra tay!
Tuyệtvời, tôi chưathấy ai tả quảmít mộtcách
đầyđủ nhưvậy, từ da xùxì, đến múi dầycơm
vàngóng. Ngàyxưa ở nhàquê ta, các cụ mỗilần hái
quảmít từ trên cây xuống thường lấy cọctre
đóngvào cuống rồi phơinắng cho nhựa trắng
chẩy hết ra mới đem bócvỏ, lấy từng múimít béongậy
thơmphức mà ăn. Hômnay ngồi đọc thơ Hồ xuân Hương
mà thèm rỏrãi! Có một điềulạ là khônghiểu
tạisao khi tả "quảmít" hay con
"ốcnhồi" nữsĩ đều liêntưởng đến
người.. quântử:
"Quân tử" có thương thì đóng cọc
và bây giờ thì:
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi
Ðêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
"Quân tử" có thương thì bóc yếm
Xin dừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.
Tôi thấy bài này cóphần hayhơn bà trên
ởchỗ tả một conốcnhồi đen thuithủi ngàyđêm
bòlê bòcàng trong đám cỏ hôitanh, bẩnthỉu mà
vẫn có người thươngyêu, trìumến, dùng tay ngóngoáy
chẳng sợ.. hôitanh mùi bùn! Ngườiấy đâuphải
là thườngdân quêmùa mà lạilà một đấnghiềnnhân
quântử! Tôi định xemlại Ðạo Ðức Kinh để tìm
địnhnghĩa về người quântử của Ðức Khổng
Phu Tử nhưng bậnquá lạithôi, nhờ các bạn
trakhảo hộ xem người QUÂNTỬ có dư thìgiờ làm
chuyện bócyếm, đóngcọc tầmthường ấy không??
Nói đến "bócyếm" tôi lại nhớ hai câu
thơ đã đọcđược đâuđó từ thuởnhỏ:
Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa
Mẹ tôi yếm thắm lên chùa đọc kinh
Các côgái thờixưa thường đeo yếmthắm xanh,
đỏ trông rất đẹpmắt trong bộ áo tứthân
với chiếc nónquaithao lộnglẫy mà có ai đòi
"bócyếm" mộtcách côngkhai nhưthếnày đâu!!
Trởlại chuyện ốcnhồi, ngàyxưa cònbé tôi ít
đượcăn ốcnhồi vì mẹ bảo ốcnhồi nhiều
thịt béongậy, đắttiền nên mẹ thường đichợ
mua một rổ ốcmút cảnhà mút xìxụp vuitai, hơn
nữa ăn ốcmút giảndị hơn, chỉviệc cầm cáikìm
nhỏ kẹp bể "cáilỗtrôn" rồi đổ nướcmắmgừng
pha tí ớt xong, cholên miệng mút cái
.."chụt" là thấy thấmthía đến cả
lụcphủ ngũtạng! Têmê tới tận trờixanh!
Cái ngày còn mài đũngquần trong các lớp đệngũ,
đệtứ, tôi đượchọc bài "Qua Ðèo
Ngang" của bà Huyện Thanh Quan, sựthật khôngcógì
xuấtsắc lắm nhưng muốn có điểmcao cứ phải
khenlấy khenđể, thựcra bà Huyện thấygì
tảnấy, như thấy concóc trong hang nhẩyra, ngồi
đó, nhẩy đi, rồi lại ngồi đó, thì làmsao cóthể
sosánh với bài "Ðèo BaDội" của Bà Phủ
Vĩnh Tường, rất vívon, nhẹnhàng, thanhthoát, hómhỉnh,
tượnghình, tượngthanh. Chúngta thử theogót Bà
Huyện Thanh Quan đến ÐèoNgang vào một
buổichiều, mặttrời xếbóng, nhìn phongcảnh
baola, hùngvĩ của sôngnúi, những tianắng vàng
yếuớt xuyênqua từng kẽ lá phảnchiếu trên
mặtnước longlanh của một consuối rócrách
chẩy, tạothành một bứctranh sơnthủy
tuyệtvời, âmthanh dịudàng, tâmhồn ngườithơ như
chìmđắm trong cáiđẹp mơmàng của buổihoànghôn.
Vậymà Bà Huyện chỉ viếtđược:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Nhìn xuống dưới thung lũng thấy cỏ cây hoa lá
chen chúc mọc, bà đề:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Xa hơnnữa vài chútiều ốm-o gầycòm đang
lomkhom làmrẫy:
Lomkhom dưới núi tiều vài chú
Chungquanh vài cănnhà lácđác trên bờsông:
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Thúthật tôi chẳngcó mộttí.. feeling nàohết!!
Làmthơ nhưvậy ai làm màchảđược!! Ta hãy để
tâmhồn lắngđọng lại, tưởngtựơng mình đang
đivề miềnquê ngoạncảnh, qua miềnđồinúi hươngthơm
ngàongạt, xaxa conđườngđất nhỏ uốnkhúc chạy
xuyênqua hết đèo này tới đèo khác lêncao
bấttận, bà Phủ Vĩnh Tường đãphải dùng ba
lần chữ "một đèo" để tảcảnh nonnước
hữutình trùngtrùng điệpdiệp này của Ðèo
BaDội:
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạo cảnh cheo leo
Ðếnđây kháchlữhành xinhãy dừngchân ở một
quánnước bênđường uống ly tràxanh nónghổi, nhìnlại
conđường cheoleo vừa trèolên mà tự khen thầm
"mình còn dẻodai lắmchứ! ". Khác với bà
Huyện , bà Phủ đến Ðèo BaDội lúc bìnhminh,
mặttrời bừngsáng mởra một vũtrụ mênhmông tươimát,
tiếng chim hót líulo trêncành chàomừng một ngày
mới, những cánhhoa muônsắc đuanhau nởrộ như
muốn quênđi cơnbãolốc đêmqua, đâuđó còn sótlại
vài cành thông còn rơi tơitả điểm những giọtsươngmai
trắngxóa longlanh trên cànhliễu usầu!
Lắt lẻo cành thông, cơn gió thốc
Ðầm đìa lá liễu giọt sương mai
Ai qua cảnh ÐèoBaDội nênthơ hữutình nhưvậy
mà không xúcđộng, làmngơ chođược:
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
Cũng chẳngphải hiềnnhân quântử , đến như
kẻphàmtục như chúngta cũng vẫn muốn trèo để
thưởnglãm cáiđẹp, cái nênthơ của tạohóa!! Tôi
rấttiếc khôngcó tài làmthơ để cóthể họa
lại bài này, và tôi cũng chưađược đọc bàithơ
nào từđông sangtây tảcảnh " trèo đèo"
hay như thế, tìnhtứ , lãngmạn nhưvậy. Ðỗ
Phủ, Lý Bạch, Thôi Hiệu .. làmsao sánhbằng!
Quả thật thiêntài như Bà Phủ chỉcómột.
Tôi khôngbiết phải viếtgì để kếtluận cho
thiên phiếmluận này, khen, chê là côngviệc của
những nhàphêbình vănhọc nghệthuật, nhưng dùsao
chăngnữa ta cũng thấy sựthiênvị rõràng giữa
hai bà một Phủ, một Huyện, cái lỗi rànhrành
của bà Phủ Vĩnh Tường là khôngchịu theo khuônphép
do các cụ đặtra cho "nàngthơ" nên mới
ra nôngnỗi này!
Bắc Giang
|