Thử
Ðitìm Cáitươngđương
Trong Phiêndịch
Bài cuả Trịnh Nhật
1. Dẫnnhập
Vấnđề chữnghiã tiếngViệt, nhấtlà
tiếngViệt dùng ở hảingoại, luônluôn là một
đềtài nóngbỏng mà nhiều thứcgiả, văngia,
thisĩ, kígiả, cùng nhiều giáochức, phụhuynh
họcsinh đều muốn thamgia. Bằngchứng là đầu
nămngoái và đầu nămnay ở Úc, đặcbiệt là
tại Sydney và Melbourne, đãcó diễnđàn gaygo nhưng
bổích về chuyện "chữnghiã và
dịchthuật" do Giáosư Nguyễn Ngọc Phách
khởixướng. Vào những năm 1995, 1996, ở Mỹ, trên
tờ nguyệtsan Thếkỷ 21 này, cũng đãcó một
cuộctranhluận dằngdai về "chữ và nghiã"
kéodài cả sáu thángtrời. Vào đầunăm 1997, trên
tờ Thờibáo xuấtbản tại Oakland, đã thườngxuyên
có mục "Dùng Từ và Dùng Chữ Chođúng"
cuả Giáosư Nguyễn ÐìnhHoà. Chúngta quantâm về
chữ, về nghiã cólẽ mộtphần vì nhucầu muốn
được nghe, được nói, được đọc, được
viết cáithứ tiếngmà Phạm Duy và Thái Thanh
vẫn quen gọilà "tiếngnướctôi từlúc
nằmnôi", mộtphần khác vì nhucầu muốn
khuyếnkhích conem ngườiViệt mình ở nướcngoài
cóthêm cơhội trởvềnguồn quaviệc nghe, đọc,
nói, viết tiếngmẹđẻ và đồngthời là để
thắtchặt mốiquanhệ giađình chođượcthêm
thắmthiết, dễ cảmthông hơn.
Nhưng cáikhó cuả chúngta ởđây là, sống nơi
xứlạ quêngười, mọichuyện thôngtin, thisự,
quảngcáo, khoahọc đaphần là quaviệc
chuyểnngữ, phiêndịch từ các tàiliệu bằng
tiếngAnh. Côngviệc này tấtnhiên đòihỏi cái
khéoléo, ứngbiến tàitình cuả những người
dịch tintức, sáchbáo. Trong bốicảnh khókhăn
cuả những ngườilàmvăn, viếtbáo, phátthanh
ấy, chúngtôi xinđược chiasẻ với quý độcgiả
Việtngữ và thôngdịchviên trên toànthếgiới
đôiđiều hiểubiết thôthiển, cùng kinhnghiệm
cuả một người có maymắn được tiếpcận
với chữnghiã và dịchthuật thôngtin Anh Việt
qua bàiviết " Thử Ðitìm Cáitươngđương
Trong Phiêndịch".
2. Phiêndịch là gì?
Phiêndịch (translation) là việc chuyểnđạt
lờilẽ, ýtưởng của một bảnvăn (text) từ ngônngữ
này sang ngônngữ khác bằng lờilẽ, ý tưởng tươngđương
dưới hìnhthức chữviết.
Ở ViệtNam hiệngiờ, ngườita gọi hiệntượng
này là biêndịch, còn phiêndịch thì nay lại
đượcdùng để chỉ côngviệc thôngdịch, thôngngôn,
hay nômna là dịchnói (interpreting). Trong
thuậtngữ phiêndịch, bảnvăn cóthể hiểu là có
hìnhthức của một từ (word), một đoảnngữ
(phrase), một câu (sentence), một cúđoạn
(paragraph), một đoạnvăn (passage), hay cả một
cuốnsách (book). Danhtừ chuyênmôn gọi ngônngữ
đem chuyểnngữ là ngônngữ gốc hay ngônngữ
nguồn (source language) và ngônngữ được
chuyểnngữ là ngônngữ ngọn hay ngônngữ đích
(target language). Nóikhácđi, nếu ta phiêndịch
từ tiếngAnh sang tiếngViệt, thì tiếngAnh là ngônngữ
gốc (ngônngữ nguồn) còn tiếngViệt là ngônngữ
ngọn (ngônngữ đích), và ngược lại.
Trong phạmvi bàinghiêncứu này, ngườiviết
xinđược giớihạn đềtài để chỉ bànvề
những đơnvị ngữnghĩa (units of meaning) của
một từ, một đoảnngữ, một câu và những
giảipháp phiêndịch những đơnvị đó mà ta còn
gọi chúng là những đơnvị dịchthuật (units of
translation). Nóikhácđi, chúng ta chỉ xétđến
cấp vimô (micro level) của việc dịchthuật, thay
vì cấp vĩmô (macro level), là phạmvi đềtài
cuả một bài nghiêncứu khác.
3. Thựcthể ngônngữ
Nóiđến phiêndịch là nóiđến ngônngữ.
Nếu ngônngữ chỉ là mạ danhpháp, tên đặt cho
toànbộ những ýniệm chung trong vũtrụ, đâu cũng
như đâu, thì việc phiêndịch từ ngônngữ này
sang ngônngữ khác chắc sẽ dễdàng, giảndị,
khôngcó gì đáng nói. Trong trườnghợp dịch
từ Anh sang Việt chẳnghạn, ta chỉ việc
thaythế tên tiếngAnh dùng chỉ một ýniệm nàođó
bằng một tên tiếngViệt tươngđương có sẵn
dùng chỉ ýniệm đó là xong. Thídụ"table"
là "cái bàn", "book" là
"quyểnsách", "woman" là "đàn
bà".
Nhưng thựctế khôngphải là như vậy, ngườita
đã khámphá ra vôsố bằngchứng chothấy rằng
mỗi ngônngữ diễntả, tổchức thựcthể vũtrụ
một cách, mỗi cộngđồng ngônngữ chiacắt
kinhnghiệm, mổxẻ thếgiới theo nhãnquan cuả
những người nói ngônngữ đó. Dướiđây là
một vài thídụ điểnhình cho thấy ngônngữ đã
phảnảnh thếgiớiquan của người nói
tiếngbảnngữ rasao và ảnhhưởng cuả nó đốivới
nghệthuật phiêndịch.
3.1 Ýniệm về "màu sắc"
Nói về "màu sắc", trong tiếngAnh,
theo Berlin và Kay, ngườita phânbiệt 11 màusắc cơbản
là "trắng, đen, đỏ, xanh lá cây, vàng, xanh
nước bin, nâu, tím, hồng, da cam, xám"
(white, black, red, green, yellow, blue, brown, purple,
pink, orange, grey), trong tiếngViệt ta có bảy màusắc
cơbản là "xanh, đỏ, trắng, tím, vàng, nâu,
đen". TiếngAnh phânbiệt màu "green"
và "blue", trong khi người Việt ta nóichung
hai màu đó là màu "xanh" (green /blue) là
đủ. Thídụ như khi ta nói "đènxanh đènđỏ",
"Trờixanh quenthói máhồng đánhghen" hay
"Biết anh thích màu trời, em đã bồihồi
chọn màu áo xanh" chẳnghạn. TiếngAnh phânbiệt
"yellow" và "orange", trong khi người
Việt ta gộp chúng lại làm một gọilà màu
"vàng". Chẳnghạn như, trong trườnghợp
bìnhthường, một côgái mặc áodài màu
"yellow" hay màu "orange" thì ta cũng
chỉ nói chung là "áo vàng" hay như trong
"áo nàng vàng anh về yêu hoacúc" là đủ
rồi, không cần thắcmắc là cúc màu "vàng"hay
màu "cam", vì "cam"cũng là "vàng".
3.2 Ýniệm về "nhiệtđộ"
Nhiệtđộ trong tiếngAnh có bốn từ cơbản
"hot, warm, cool, cold", trong tiếngViệt cũng
có bốn từ cơbản "nóng, ấm, mát,
lạnh". Hai từ "hot, cold" chỉ hai tháicực
của nhiệtđộ thì tươngđương với "nóng,
lạnh" đãđành, nhưng "warm, cool" thì
không hoàntoàn tươngđương với tiếngViệt
"ấm, mát" khi nóivề nhiệtđộ
thitiết. TiếngAnh khi nói "warm" có nghĩa
là "nóng" mà cũng có nghĩa là
"ấm", diễntả cái "khó chịu"
(discomfort) cũng như cái "dễ chịu"
(comfort) của từngữ đó. Thídụ"It"s
getting warm in here!" (Trong này coibộ nóng à
nghe!) nói diễntả cái "khóchịu" khi rút
khăn mùixoa lau mấy giọt mồhôi đọng trên trán,
và "It"s getting warmer today" (Hôm nay
trời coi bộ ấm) nói diễntả cái
"dễchịu" sau mấy ngày lạnh buốtgiá.
Vậy là tùytheo ngữcảnh, tùytheo yếutố phingônngữ
(nonlinguistic elements), mà ta phải dịch là "nóng"
hay "ấm". Còn tiếngViệt nói
"ấm" thì có nghĩa là "không
lạnh" diễntả cái "dễchịu" không
màthôi, như khi ta nói "hômnay trời ấmáp,
dễchịu quá" hay "mặc cái áolen này vào
cho ấm ", tấtnhiên không hàmnghĩa "khóchịu".
Tươngtự trong tiếngAnh "cool" có nghĩa
là "lạnh" mà cũng có nghĩa là "mát",
diễntả cái "khóchịu" cũngnhư cái
"dễchịu" cuả từngữ đó. Còn
tiếngViệt nói "mát" thì chỉcó nghĩa là
"không nóng" dùng diễntả cái
"dễchịu", như khi ta nói "hômnay
trời mát mẻ, dễchịu quá" hay "cởi cái
áo len này ra cho mát", tấtnhiên không hàm
nghĩa "khóchịu".
Nhưng khi nóivề nhiệtđộ không thôi, thì
"cold" và "cool" lại đồngnghĩa
với nhau trong tiếngViệt gọichung là
"nguội" thường diễntả cái "khóchịu".
Thídụ khi ta nói "ăncơm đi kẻo thứcăn nó
nguội" (Go ahead and eat, otherwise it [the dinner]
will get cold) hay "Không ăn đi để thứcăn
nguội hếtrồi!" (The food will get cold if you
don"t eat it now). Nhưng cũng cóthể diễntả cái
"dễchịu"nếu ta nói: "Coichừng! để
nguội rồi hẵng ăn" (Be careful! let it [the
food] cool a bit before you eat it).
3.3 Ýniệm về "anhchịem"
Trong tiếngAnh ngườita chỉ phânbiệt pháitính
(gender) "nam nữ" trong liênhệ anhchịem
bằng từ "brother" (trai) và từ
"sister" (gái). Vìvậy, khi giớithiệu ngườianhtrai
hay emtrai thì họ chỉ nói "He is my
brother", còn khi giớithiệu chịgái hay emgái
thì "She is my sister", thếthôi. Ðể cóthể
dịch được sang tiếngViệt, ta cònphải hỏi thêm
chitiết là thanhniên hay thiếunữ được
giớithiệu đó lớn tuổi hay nhỏ tuổi hơn
đươngsự.
Ngoàiviệc phânbiệt pháitính "namnữ"
bằng từ "anh" (trai) và từ
"chị" (gái), tiếngViệt ta còn đixa hơn
thế, phânbiệt thứbực "trêndưới"
bằng từ "em" (younger sibling), người
sinhsauđẻmuộn hơn mình. Cóđiều là
tiếngViệt ta không phânbiệt pháitính của người
dưới cùng cha sinh mẹ đẻ với mình, ở cấp
vai "em". Nếu muốn phânbiệt thì phải
thêm từ "trai" hay "gái" để cóthể
nói "emtrai", "emgái".
Âuđó cũng thểhiện một khíacạnh vănhóa
Ðông Tây khácbiệt. NgườiViệt mình xemchừng
không coitrọng, không quantâm nhiều đến kẻdưới
bằng người phươngTây, và điềunày cóthể
thấyrõ hơn khi ngườiViệtNam giớithiệu nhau
tronglúc gặpgỡ. Lúcđó ta thường không
giớithiệu trẻem. Liệu cấutrúc Việtngữ có gópphần
vào việc uốnnắn lối suy ghĩ, tưtưởng, hànhđộng
của ngườiViệtNam theo giảthuyết của
SapirWhorf haykhông thì đó lạilà chuyện khác.
4. Ðitìm cáitươngđương (equivalence)
Ngoài những thídụ điểnhình nêutrên về
thựcthể của ngônngữ, ngườita còn tìmthấy vôsố
những sựkiện khác chothấy rằng (a) hai ngônngữ
cóthể khôngcó chung ýniệm; (b) haingônngữ cóthể
có chung ýniệm, nhưng ngônngữ ngọn khôngcó
từ cho ýniệm ấy; (c) ngônngữ ngọn thiếu từ
tổngthể (superordinate); (d) ngônngữ ngọn thiếu
từ cábiệt (hyponym); (e) hai ngônngữ khácnhau
về môthức kếthợpngữ (collocational patterns);
(f) hai ngônngữ khácnhau về cụmtừ cốđịnh và
thànhngữ (fixed and idiomatic expressions).
Nhưng không vì những sựkiện vừa kể mà ta
đành thúcthủ, bótay, chàothua, hay mang một tháiđộ
tiêucực trong chuyện dịchthuật mà bảo rằng
"dịch là phản". Lịchsử, thựctế
của việc phiêndịch đã chứngminh ngượclại.
Chúngta đã thấy không biết baonhiêu tácphẩm, tàiliệu
dịchthuật mà giátrị của chúng là giúpcho nhânloại
trên quảđiạcầu hiểurõ những tưtưởng
họcthuật, những thôngtin khoahọc, xãhội, vănhọc,
nghệthuật, tôngiáo, nhânsinh và giúpcho chúngta
họchỏi được biếtbaonhiêu điều khác nữa
cuả nhau, về nhau.
Nếukhông tìmhiểu những khókhăn khi đitìm cáitươngđương
trong ngônngữ, ta khócóthể đánhgiá được cáihay
cáidỡ trong côngtrình phiêndịch của các
dịchgiả tiềnbối cũngnhư hậubối, của
những người làm côngtác dịchthuật trước cũng
như sau chúng ta. Dướiđây là mộtsố trườnghợp
khókhăn khi đitìm cáitươngđương trong hai ngônngữ
Anh, Việt.
4.1 Hai ngônngữ khôngcó chung ýniệm
Hai ngônngữ cóthể khôngcó chungcùng ýniệm,
hay ýniệm trong hai ngônngữ cóthể khác xanhau.
Trườnghợp hai ngônngữ khôngcó chung ýniệm thường
thấy xuấthiện trong các từ biểulộ đặctrưng
vănhóa (culturespecific terms) như "đồăn
thứcuống" (meat pie, Continental breakfast; búnmộc,
bánhchưng), "nhàcửa đồđạc" (manor,
cupboard; nhàsàn, tủchè), "quầnáo giầydép"
(balaclava, sneakers; áo tứthân, giầy Giađịnh),
"cơchế chínhtrị" (Shadow Cabinet, front
benchers; Chủtịch Uỷban Hànhpháp Trungương, Bíthư
Thànhủy), "xãhội nghềnghiệp" (access
and equity, drag queens; nghề bán cháo phổi, quântử);
"phongtục tậpquán" (muckup day, New
Year"s resolution; Tết, tiềnlìxì), "luânlí
đạođức" (fair go, wife swapping; chồngchúavợtôi,
nhất tự vi sư bán tự vi sư).
Nay ta thử đisâu vào chitiết để xét những
trườnghợp riênglẻ trongđó hai ngônngữ Anh
Việt khôngcó chung ýniệm, hay ýniệm trong hai ngônngữ
Anh Việt khácxa nhau. Trong tiếngAnh ta có kháiniệm
"privacy" dùng để chỉ "đờitư,
chuyệnriêng, cuộcsống cánhân, tàiliệu, thôngtin
riêngtư của một người nào, mà họ muốn được
ngườikhác coitrọng, khôngđược xíavô". NgườiViệt
khôngcó kháiniệm này, và vìthế khôngcó từ tiêuchuẩn.
Tìnhhuống sauđây sẽ cho ta thấy nỗi khókhăn
khi ta phải dịch từngữ "privacy".
Patrick Rafter, danhthủ quầnvợt sốmột của Úc,
trướcđây vì muốn làm vừalòng khángiả hâmmộ
mình đã phải ngưng buổi tậpdượt chuẩnbị
cho giảiquầnvợt vôđịch Tiểubang NSW đã dành
thigiờ kítên tặng cho 500 khángiả đến xin
chữký của anh tronglúc nhiệtđộ ngoàitrời là
trêndưới 400C. Báochí Úc đã viết đạiloại có
đoạn nhưsau: "Vào tuầntới khi anh xuống
Melbourne để dựgiải Vôđịch Úcchâu Mởrộng
(Australian Open) anh sẽ khôngcó những buổi
ramắt nhưthế nữa, mà sẽ tìmcách làmsao cóđược
"privacy" nhiều chừngnào tốt chừngấy,
hầu tậptrung tinhthần đánhthắng ựớigiải
(Grand Slam) này". Ta cứ thử nghĩ xem phải
dịch chữ "privacy" cáchnào choổn. Vì
nhucầu phiêndịch ngườita đã thấy chữ
"privacy" được chuyểnngữ là
"sự/cái riêng tư", chữ "privacy
rights" là "quyền riêngtư ", nhưng
thửhỏi dùng chữ "sự/cái riêng tư `"
trong trườnghợp trên nghe có chỉnh không. Liệu
dịch là "... sẽ tìm cáchnào đểđược yênthân/
không bị quấyrầy ... " có được kể là
đã dịch được nghĩa tươngđương, tươngứng
haykhông?
Chữ "Speaker" như trong "Speaker (of
the House)" dùng trong ngữcảnh Hạviện
Quốchội Anh, Mỹ, Úc để chỉ "nhânvật đứngđầu
trong Hạviện có vaitrò duytrì quyềnhành và
trậttự trong các phiênhọp tại Hạviện, hoàntoàn
độclập, không thiênvị đảngphái nào", khácvới
ýniệm "Chủtịch Hạviện"mà
tiếngViệt ta quendùng. Tôi đã códịp nghe một
đồngnghiệp đài BBC Luânđôn, cólẽ vì vộivã
sơý đã dịch từngữ "Speaker" là
"phátngônnhân" khi nóivề chuyện xảyra
tại Quốchội Iran hồi còn chếđộ Ayatollah
Khomeini.
Ýniệm "challenge", đượcdùng trong
một phiênxử hìnhsự tại Tòa Thượngthẩm
(Supreme Court), là cốt đểchỉ ý khôngchiụ
chấpnhận một thànhphần côngdân đã được
bốcthăm gọitên vào ngồi trong bồithẩmđoàn
(jury). Bốicảnh là saukhi ngườicôngdân này được
xướngdanh, luậtsư bênhvực cho bịcáo (the
accused) bèn quansát, trông mặtmũi, gốcgác
sắctộc, pháitính namnữ của ngườI được
gọi tên đó mà rỉtai bảo thânchủ của mình là
hãy nói "challenge" đi! Tứcthì thôngdịchviên
lúcđó phải dịch cho thânchủ biết
"challenge" trong tiếngViệt làgì để thânchủ
nói bằng tiếngViệt rồi mình dịchlại là"challenge".
Kháiniệm "challenge" nhưthế khôngthấy có
trong tiếngViệt, nên chính bảnthân tôi đã hơi
bị lúng túng, "khựng" lại khi lần đầu
thôngdịch tại Tòa Thượngthẩm Tiểubang
Victoria, Úcđạilợi vào năm 1985. Cuốicùng thì
tôi đành "cương" mà bảo cho bịcáo nói
"phảnđối" đểcho mình dịchlại là
"challenge".
Trong tiếngViệt ta có chữ "hiếu" dùng
để chỉ "bổnphận của concái đốivới
chamẹ lúc chamẹ cònsống cũng như lúc đã qua
đicái bổnphận baogồm sựtônkính, lòng
thểphụng, hànhđộng phụngdưỡng quạtnồng
ấplạnh", mà ta khôngthể thấy có từ tươngđương
quen dùng trong tiếngAnh với cùng ýnghĩa baotrùm
đó. Tươngđương gầnnhất trong tiếngAnh là
"filial piety".
Chữ "tiếthạnh" trong tiếngViệt dùngđể
chỉ "bổnphận của ngườivợ đối với ngườichồng,
cho dù ngườichồng cònsống hay đã chết,"
cái bổnphận baogồm sựgiữgìn chữtrinh thểxác,
chữtrinh tinhthần, sẵnsàng thủtiết, khôngchiụ
bướcđi bước nữa nhưthế khôngcó sẵn trong
tiếngAnh baohàm toànbộ ýnghĩa đó. Tươngđương
gầnnhất trong tiếngAnh cólẽ là
"chastity".
Ýniệm "nóithách" là "nói caogiá,
tănggiá của một mónhàng lên sovới giá thật
đểcho người muốn mua phải mặccả hạthấp
giá xuống là vưà" cũng khôngthấy cósẵn
trong tiếngAnh. Muốn nói đểcho người bảnngữ
tiếngAnh hiểu thì phải dịch theo lối cắtnghĩa
là "to put the price up expecting people to
bargain" (nói tăngcao giá đểcho ngườita
mặccả).
4.2 Hai ngônngữ có chung ýniệm nhưng ngônngữ
ngọn khôngcó từ để chỉ ýniệm chung đó.
Nếu ýniệm "gentleman" dùng đểchỉ
một ngườiđàn ông "tríthức, lịchlãm, có
tưcách", và ý niệm "lady" dùng đểchỉ
ngườiđàn bà "lịchsự, đoantrang, duyêndáng"
trong tiếngAnh, thì tiếngViệt ta cũng có chung
hai ýniệm ấy nhưng ta khôngcó từ để nói
tại ngườiđànông và ngườiđànbà có những
phẩmcách ghinhận ởtrên. Vìvậy, khi
chuyểndịch từ ngônngữ gốc, tiếngAnh, sang ngônngữ
ngọn trong trườnghợp này là tiếngViệt, ta
sẽ gặpkhókhăn.
Trong một cuộc điềutra về một vụ buônbán
xìke matuý ở Úc, saukhi đã được luậtsư
biệnhộ của mình cho ýkiến, hai vợchồng
ViệtNam đang bị tạmgiam trong Trại Cảihuấn,
nhận sẽ hợptác với cơquan cảnhsát điềutra
để ra làmchứng trước Tòa, khai thêm những hànhđộng
của tay chuátrùm trong nhóm (ringleader) với
hyvọng sẽ được nhẹtội. Cặp vợchồng này
sauđó được áptải, với hai tay vẫncòn bị còng,
từ Trại Cảihuấn lên Cơquan Trungương điềutra
Tộiphạm (National Crime Authority) đặttại Sydney.
Trong hộitrường, trước sốđông báquanvănvõ
cuả cơquan cùng các luậtsư bên bị, ngoài hànhđộng
đốixử lịchsự âncần với hai vợchồng mà
nay tay họ đã được tháo còng và ngoài những
lílẽ ngonngọt hoamĩ, viên Trưởngthanhtra Cảnhsát
saucùng đã nói đạiloại nhưsau: "Hômnay
với sựhiệndiện của anh chị tại thiểm cơquan,
tôi và toànthể nhânviên cómặt ởđây đã coi
anh là "gentleman" và coi chị là
"lady". Ta cứ thử tưởngtượng với hai
từ này thôngdịchviên lúc đó phải dịch
ứngphó rasao. Kể cũng nên nói thêm là anhchồng
hiểu tiếngAnh chútchút, còn chịvợ là gáiquê
chưa học hết bậctiểuhọc ở ViệtNam,
tiếngAnh còn mùtịt. Vì nhucầu bắtbuộc phải
chuyểnngữ thì liệu dịch là "... tôi và toànthể
nhânviên cómặt ởđây đã coi anh chị là
"những người lịchsự, đànghoàng" cóđược
không?
Chữ "lane" trong tiếngAnh có nghĩa là
"mộtphần của một đạilộ được đánhdấu
phânđịnh bằng méprìa đườnglộ và vạchsơn
kẻchỉ, hay bằng hai vạchsơn kẻchỉ". Ýniệm
này ngườiViệt tất phảicó, nhưng tiếngViệt
khôngcó sẵn từ cho chữ "lane"đó. Ở
Úc ngườita đã nghe từ này được dịch là
"lên", nháiâm tiếngAnh. Ở ViệtNam ngheđâu
ngườidân đang làmquen với từ "lànđưng",
chứ khôngphải "lằnđưng".
Ýniệm "quântử" dùng đểchỉ
"ngườitàiđức xuấtchúng, ngườiphẩmhạnh
ngaythẳng, ngườI có nhâncách hoàntoàn theo
Khổnggiáo", chắc khôngcó sẵn từ trong
tiếngAnh. Nếu bắtbuộc phải chuyểndịch từ
ngônngữ gốc, tiếngViệt sang ngônngữ ngọn
trong trườnghợp này là tiếngAnh thì chọn từ
tươngđương là "gentleman" có được không?
và nếuđược thì trong ngữcảnh, vănmạch nào?
Ýniệm "de facto relationship" trong
tiếngAnh khôngcó sẵn trong vốn từ tiếngViệt.
Ở ViệtNam ta cũng có liênhệ sốngchung đấy,
nhưng ta chỉ nói tại "bàbé, bànhỏ"
hoặc "lấy làmbé, làm bàbé, làm bànhỏ, làm
vợbé, làm vợnhỏ (cuả ôngấy) " như trong
quanhệ hônnhân chínhthức. Nếu dịch sang
tiếngAnh là "concubine", là "wife"
trong các vănkiện giấytờ cóđượckhông, cóđúngkhông?
Ở Úcđạilợi từ "de facto relationship"
đãđược dịch theolối cắtnghĩa là
"sốngchung không hônthú/giá thú" và từ
này nay đã khá phổbiến, nhưng còn "de facto
partner" nếu dịch là "ngườibạn
sốngchung không hônthú" hay là "bồbịch
sốngchung", thì nghe cóchuẩn không, cáinào
chuẩn hơn cáinào, từ nào rồi sẽ đi vào ngônngữ,
cụmtừ nào rồi sẽ được nhiều người dùng
hơn?
4.3 Ngônngữ ngọn thiếu từ tổngthể
(superordinate)
Từ tổngthể là gì? Trong tiếngAnh từngữ
"flower" cóthể được coi là từ
tổngthể (superordinate) dùng đểchỉ toànbộ các
loàihoa trong trưng ngữnghĩa (semantic field) nói
về hoa trongđó có "rose, daffodil, lily, orchid,
tulip, sunflower, chrysanthemum,..." (hồng, thủy
tiên, huệ, lan, tuylíp, hướng dương, cúc ...) mà
chúng được gọilà những từ cábiệt
(hyponyms). Nếu phải dịch từ "flower" ra
tiếngViệt thì ta khôngcó khókhăn gì vì
tiếngViệt, trong trườnghợp này là ngônngữ
ngọn, đã cósẵn từ tổngthể tươngđương là
"hoa".
Nhưng trong trườnghợp phải dịch từ
tổngthể là "problems", một từ rất thôngdụng
trong tiếngAnh, sang tiếngViệt ta sẽ gặpkhókhăn.
Thídụ như trong tiếngAnh họ nói đến
"problems" mà vì khôngcó một từ
tổngthể trong tiếngViệt, ta phải tùy trườnghợp
dịch là "vấnđề (issues), vấnnạn/tệnạn
(irregularities), khókhăn (difficulties), trởngại
(obstacles), trụctrặc ([mechanical] troubles),
biếnchứng (complications), thắcthắc (queries). Ðặcbiệt
ra còn cóthể dịch "problems" là lỗi
(fault)" như trong "lỗi tại tinhtrùng"
(sperm problems), " lỗi ở ốngdẫntrứng"
(Fallopian tube problems), " lỗi ở trứngrụng
bấtthường" (ovulation problems), "lỗi ở
chấtnhờn tửcung" (mucus problems) , là những
nguyênnhân gâyra tìnhtrạng hiếmmuộn. Hoặc đặcbiệt
hơn dịch "problems" dướidạng hơi lạ là
"(chứng) khó ... " như trong "chứng
khóthở" (breathing problems).
TiếngViệt khôngcó từ tổngthể tươngđương
với từ "rocking" nên khi ngườimẹ nângniu,
nựngniụ đứacon sơsinh bằng cửchỉ
"rocking" như trong một tàiliệu nói về
"Trẻ Sinhnon" (Premature Babies) ở Sydney
cuả Bộ Ytế Tiểubang New Southể Wales mà tôi đã
được duyệt bảnthảo vào cuối thậpniên 80,
ngườidịch sẽ khôngbiết phải chọn dịch
cửchỉ nào "bồng đứabé trêntay đuđưa"
(rocking the baby in one"s arm), hay là "đuđưa
cáinôi trongđó đứabé đang nằm" (rocking
the cot where the baby is lying).
TiếngViệt khôngcó từ tổngthể tươngđương
với từ "rice" trong tiếngAnh, trong khi đó
tiếngAnh khôngcó những từ cábiệt để phânloại
các hìnhthức khácnhau của "rice" là
"mạ, lúa, thóc, gạo, cơm, cốm, bỏng "
trong tiếngViệt. Bộ Cảitiến Nôngthôn ở
MiềnNam trướcđây có một cơquan gọilà Sở Túcmễ
(Rice Service), "túcmễ" nghĩa là "lúa
gạo" ("túc" là "luá",
"mễ" là "gạo"), là một
bằngchứng chothấy tiếngViệt khôngcó từ
tổngthể tươngđương với từ "rice", nên
phải dùng hai từđơn làm từghép chỉ nghiãchung
cho cả lúa lẫn gạo. Ta cứ thử tưởngtượng
khi một ngườibảnngữ tiếngAnh, hay conem ngườiViệt
chúng ta sinhtrưởng ở những nước nói
tiếngAnh, phải dịch chữ "rice" sang
tiếngViệt trong những từghép như "imported
rice", "rice fields", "green
rice", rice bubbles, "boiled/steamed rice"
thì chắc sẽcó vấnđề.
Lốitổchức từvựng về quanhệ thântộc
họhàng (kinship terms) trong tiếngViệt phứctạp
hơn trong tiếngAnh rất nhiều. TiếngAnh có từ
"uncle"chỉ chung cho nhiều từ cábiệt
trong tiếngViệt như "chú, bác, cậu, dượng"
và từ "aunt" chỉ chung cho nhiều từ cábiệt
trong tiếngViệt như "cô, bác, dì, già, thím,
mợ". Ta cứ thử suynghĩ một chút thì
thấyngay nỗi khókhăn, phiềnphức khi ta, hoặc
nhấtlà một ngườibảnngữ tiếngAnh, phải
chọn chữ nào cho thíchhợp để dịch từ
"uncle" hoặc "aunt" sang
tiếngViệt. Tôi đã chứngkiến thấy trong một
vănbản điềutra của cảnhsát Úc về một người
bị tốgiác có dínhlíu trong một vụ hiếpdâm,
từ "dượng" như trong "Dượng Năm",
tiếngMiềnNam dùng đểchỉ ngườichồng của người
"cô", hay người "dì" thứnăm
của mình, khônghiểu sao bị dịch nhầm ra
tiếngAnh là "Elder Brother Five", thay vì
"Uncle Five" mới là hiểu đúng, dịch đúng.
Bằngkhông, dịch sai nhưthế thì chảnhẽ
"Quít làm Cam chịu " haysao?
Nóitómlại, trong trườnghợp ngônngữ ngọn
khôngcó từ tổngthể như ngônngữ gốc, ta
phải dùng một từ cábiệt để chuyểnngữ
tức là ta đã ápdụng lối "dịch nghĩasâu"
(overtranslation).
4.4 Ngônngữ ngọn thiếu từ cábiệt (hyponym)
Từ cábiệt là gì? Với từ tổngthể
"house", tiếngAnh có rất nhiều từ cábiệt
như "bungalow, cottage, croft, chalet, lodge, hut,
mansion, manor, villa, hall ...". Nếu suynghĩ
mộtchút mà tìm trong tiếngViệt thì ta thấy cũng
có một số như "nhàsàn, nh tranh, nhàtranhváchđất,
nhàlá, nhàngói, nhàgạch, nhàcây, biệtthự,
vila, nhàchòi, túplều, nhàtrệt ..." nhưng để
mà dịch, tìm từ tươngđương để điền thế
cho nhau, thì khôngphải là chuyện dễ. Với từ
tổngthể "cooking" tiếngAnh có vôsố các
từ cábiệt như "boil, roast, bake, brew, stew,
braise, simmer, poach, grill, seal, glaze, prick, brown
" mà tiếngViệt ta khôngcó đầyđủ từ tươngứng.
Nặnóc tìm thì cũng được mộtlô "luộc, xào,
chiên, rang, bác, rán, tráng, dim, nướng, nướngvỉ,
hấp, hấpcáchthủy, hầm...", nhưng phải làm
côngviệc "mối mai" saocho tươngxứng
(matching) thì chưachắc đã máttay.
TiếngAnh thiếu từ cábiệt cho độngtừ
tổngthể "to wear," trong khi tiếngViệt có
15 từ cábiệt cho ýniệm "to wear" nhưng
khôngcó từ tổngthể. Thídụ như "để (tóc,
râu), đi (giầy, vớ, bíttất, hia, hài), mặc (áo,
quần), đội (nón, mũ, tóc giả), chít (khăn), đeo
(kính, nhẫn, dây chuyền, càvạt), thắt (dây lưng,
càvạt), đánh/giồi (phấn), thoa (son,
kemchốngnắng), tô (son), bôi (son, nướchoa),
xức (thuốc, dầu), xịt (dầuthơm)", đóng
(khố). Tấtcả những từ cábiệt kểtrên đều
cóthể chuyểnngữ bằng từ "to wear"
hoặc "to put on", nhưng không dùng "to
put on" cho "hair" (tóc), ngoạitrừ
"to put on a wig" (mang tócgiả). Từ
"to wear" còn cóthể được thaythế
bằng "to apply", nhưng chỉdùng trong trườnghợp
duynhất là "to apply makeup" (đánhphấn
thoason / trangđiểm) màthôi.
Hãy thử tưởngtượng một ngườiAnh, Mỹ, Úc
học tiếngViệt mà phải dịch độngtừ "to
wear" sang tiếngViệt thì khókhăn biết là
chừngnào! Song, khókhăn không chỉ dừnglại ởđây,
độngtừ tổngthể "to lose" có 7 từ cábiệt
trong tiếngViệt "mất, thua, lạc, thất,
sụt, bại, chết", xếp theo thứtự khảnăng
kếthợp từ cao xuống thấp. Tùytheo mình
"lose" cáigì mà ta phải chọn cho đúng
từ để dịch. Thídụ "mất như trong
"mấttiền (money), mất bạn (friends),
mấtmặt (face), mất niềmtin (faith) ...",
"thua" như trong "thuatrận (a battle),
thuacuộc (a contest) ...", " lạc" như
trong " lạcđưng (the way), lạchướng
(direction) ...", " thất" như trong
" thấttình (one"s love), "thấtvọng
(one"s hope)... ", "sụt" như trong
" sụtcân/kí (weight)...", " bại"
như trong " bạitrận (a war)",
"chết" (lose one"s life). Chẳnghiểu vì
lýdo gì mà Việtngữ lại có nhiều từ để
chỉ ýniệm "mất" với "thua" đếnthế.
Vấnđề còn phứctạp hơn thế khi ta xétđến
độngtừ tổngthể "to carry" có 24 từ cábiệt
trong tiếngViệt "đem, đưa, mang, vác, xách,
đội, cõng, cầm, ôm, bồng, ôm, khiêng, gánh,
quảy, đeo, đèo, chở, lai, thồ, điụ, bưng,
bế, kiệu, công kênh" tùytheo mình
"carry" cáigì và ởđâu. Kể nghĩ cho kĩ
thì ta cóthể xem độngtừ "đem/đưa" là
từ tổng thể tươngđương với độngtừ
"to carry". Lýdo tạisao Việtngữ có
nhiều từ cábiệt cho loạI "đem/đưa" này
cóthể giảithích được là thời xaxưa,
ViệtNam cơbản là một nước nôngnghiệp, ngườiViệt
ta khôngcó mấy phươngtiện nângkhuân, chuyênchở
nên phải dùng đến taychân, đến thânmình làm
phươngtiện thaythế. Vì khôngcó những từ cábiệt
tươngứng với tiếngViệt, nên phiêndịchviên mà
tiếngViệt khôngphải là tiếngmẹđẻ chắc
sẽ lúngtúng khi phải chọn trong mớ từ dàyđặc
nêutrên để tìmlấy một từ tươngứng với
bảnvăn ngônngữ gốc.
Tươngtự, danhtừ tổngthể "áo" có hơn
10 từ cábiệt trong tiếngAnh như "shirt,
blouse, sweater, windcheater, pullover, cardigan, coat,
jacket, slip, shawl, cape, smock, dress, tunic ..." mà
tiếngViệt nếu cần phânbiệt thì cũng nói
chung là "áosơmi, áolạnh, áoấm, áobông, áochoàng,
áotơi, áodài ...", khôngsao có đủ sốlượng
từ tươngứng. Nếu tôi nhậnxét khônglầm thì
mãi tới mấy thậpniên gần đây ngườita mới
thấy tiếngAnh có từ tổngthể "top" dùng
tươngđương như "áo" trong tiếngViệt.
Trong trườnghợp ngônngữ ngọn khôngcó từ cábiệt
như ngônngữ gốc, ta phải dùng từ tổngthể để
chuyểnngữ tức là ápdụng lối "dịch nghĩa
nông" (undertranslation). Thídụ như từ cábiệt
"cardigan" (áolenđan, xẻ phíatrước cóthể
cài kín lại bằng khuy hay phẹcmatuya) mà ta
phải dịch sang tiếngViệt thì thôngthường ta
chỉ dùng từ "áolen/áolạnh" là đủ,
ngoại trừ trườnghợp cần giảithích thì không
nói làmgì. Kể cũng nên ghinhận thêm ởđây là
ta thì nói "quầnáolạnh, quầnáoấm", còn
Tây lạinói "heavy clothing, warm clothing"
(*quầnáo nặng, quầnáoấm"). Nhậnxét về
"quần áo lạnh" (*cold clothing), mà họ nói
là "coldweather clothing" (*quần áo
thờitiết lạnh), về "heavy clothing"
(*quầnáo nặng) là đầumối đưadẫn ta sang bànvề
một tiểumục kếtiếp liênquan tại môthức
kếthợpngữ (collocational patterns).
4.5 Hai ngônngữ khácnhau về môthức
kếthợpngữ (collocational patterns)
Kếthợpngữ (collocation) là hiệntượng trongđó
"hai hay nhiều từngữ thường đichung
vớinhau mộtcách "vuivẻ", tựnhiên trong
một ngônngữ nàođó. ThídụngườiViệt ta nói
"trà đặc" (*dense tea), "gộiđầu
(*wash one"s head), "đánhrăng" (*beat
one"s teeth), "đỡđẻ" ("*assist
in giving birth"), "xómchịemta" (*our
sisters" district) thì nghe xuôitai, trong khi
tiếngAnh họ lại nói "strong tea" (*trà
khoẻ), "wash one"s hair" (*rửatóc)",
"clean one"s teeth" (*làm sạch răng)",
"deliver a baby" (*giao đứabé),
"redlight district" (*xómđènđỏ).
TiếngAnh họ nói "break the law"
(*bẻgẫy/phá luậtpháp), "beat shyness" (*đánh
thẹnthùng), "kick the habit" (*đá thóiquen),
"passport to recovery" (*hộchiếu/thônghành
điđến chỗ phụchồi), hay thôngthường hơn
"passport to health" (*hộchiếu/thônghành
đến sứckhoẻ); trongkhi ngườiViệt ta nói
"phạmluật", "chữathẹn",
"bỏ thóiquen", "chiếukhán điđến
chỗ phụchồi ", thì nghe mới quentai. Khácbiệt
về môthức kếthợpngữ giữa ngônngữ gốc và
ngônngữ ngọn là mầmmống cạmbẫy đưa phiêndịchviên
vào chỗ phạmphải lỗilầm.
Tínhtừ "giả" có hơn 10 từ tươngđương
trong tiếngAnh như "fake, false, bogus,
counterfeit, sham, imitation, reproduction, artificial,
forged, assumed, replica, glass, prosthetic..."khi
dịch ta phải tùytheo cáigì đivới
"giả", nghĩalà từ nào kếthợp hàihòa
với ýniệm "giả" trong tiếngAnh, để mà
chọn từ tiếngAnh chođúng, chứ khôngthể
"râu ông nọ cắm cằm bà kia". Thídụ
"tiềngiả" thì phải (counterfeit
notes/coins), "nữtrang giả" (imitation
jewellery), "thuốcgiả" (fake pharmaceutical
products), "hônnhân giả" (bogus/sham/fake
marriage), "giấytờ giả" (forged/fake
papers), "chữkí giả" (forged/fake
signature), "chântaygiả"
(artificial/prosthetic limbs), "mắtgiả"
(glass eye), "rănggiả" (false teeth), "têngiả"
(assumed/false name), "cục vànggiả"
(replica gold nugget), còn "bứctranh giả"
thì là (reproduction painting). Báochí Úc đã có
lần nóivề cuộc hônnhân giưã Tháitử Charles và
côngnương Diana trướcđây là "sham
marriage".
Tínhtừ "đen" trong tiếngViệt có thêm
7 dạng khácnhau tùytheo "đen" xuấthiện,
đichung với danhtừ nào mà ngườinói cóthể
sửdụng đúng kếthợp ngữ, dùrằng đólà
những kếthợp hạnchế. Thídụkhi đi với
"tóc" thì là "tóchuyền", với
"mèo" là "mèomun", với "chó"
là "chómực", với "ngựa là
"ngựaô", với "gà" là "gàác",
với "bò" là "bòhóng", với
"áo" là "áothâm". Riêng với
"mun", "ô", "huyền", ta còn
có kếthợpngữ "đuãmun", "gàô",
"khóihuyền" (như trong "khóihuyền
bay lên mây"); "hạthuyền" (như trong
"răngđen hạthuyền").
Trong tiếngViệt khi nóivề ngườI mangnặng đẻđau,
cócông sinhthành ra mình, ta chỉ nói ngườiđó là
"mẹ (ruột, đẻ)", trongkhi tiếngAnh họ
nóitới nàolà "(biological, natural, genetic,
birth) mother". Cũng từ thídụnày ta lại
họcthêm được một điều nữa về môthức
kếthợpngữ trong phiêndịch. Khi gặp một từ
như "mẹruột, mẹđẻ" mà phiêndịchviên
chưa códịp tiếpcận nhiều với tiếngAnh đếnđộ
biết được 4 từ vừa nêu để chọn một, thì
cứ chiếutheo nghĩa tiếngViệt, mayra cóthể
chọnđược một từ đúng cho từ "mẹđẻ"
là "birth mother", bởi vì "birth"
liênhệ tại sinhđẻ, chứ còn
"mẹruột" mà đem dịch là
"*intestinal mother" vì "intestine" là
"ruột", thì sẽ nghe khôngtựnhiên vì khôngphải
là kếthợpngữ điểnhình trong tiếngAnh.
Tínhtừ "instant" có khảnăng kếthợp
rất rộngrãi trong tiếngAnh như "instant +
(cash, coffee, fame, lawn, love, noodle, Scratchies,
sellout, signs, success, boiling water...)" nhưng khôngcó
từ tươngđương duynhất trong tiếngViệt, nên
mỗilần dịch tínhtừ này lạilà một lần
phải suynghĩ xem tiếngViệt nói thếnào. Ðạiloại
thì ngườita cóthể tìm lốidịch tươngđương
như "tiềnmặt trả liền", "càphê
bột/pha nhanh cóliền",
"nổidanh/tiếngliền", "thảmcỏ mua
sẵn trảiliền", "có tình/ngườiyêu
liền", "mìgói ănliền", "vé/hànghóa
bánra hết liền", "vésố cạo trúng
lấytiền liền", "bin/bảngvẽ
lấyliền", "thànhcông liền/tứcthì",
"nướcsôi nấu cóliền".
Nóichung thì từ để dịch "instant" là
"liền" nhưng ta khôngthể chuyểnngữ máymóc
được mà phải tùy nó kếthợp với từ nào mà
phải dịch theolối cắtnghĩa, thêmthắt đôichút
chohợp với lốinói, lốidùng ý, dùng tứ
Việtnam, thì ngườiViệt nghe mới quentai. Hiệntượng
nghequentai cóthể xảyra theo "tiếntrình
giống lông giống cánh" (process of analogy) mà
ta đã thấy trong Anhngữ. Từ những kếthợp
của tínhtừ "heavy" với các danhtừ mà
nó bổtúc nghĩa như "heavy drinker" (sâurượu),
"heavy smoker" (hút liêntu bấttận),
"heavy sleeper" (ngủsay như chết),
"heavy eater" (ănkhoẻ như trâu) mà nay ngườibảnngữ
tiếngAnh đã chấpnhận ngườighiền cờbạc cóthể
gọilà "heavy gambler", trongkhi trướcđây
cóthể họ chỉ chấpnhận những kếthợp điểnhình
như "big gambler", "compulsive
gambler", hoặc mớiđâyhơn "problem
gambler", addictive gambler", "excessive
gambler".
4.6 Hai ngônngữ khácnhau về cụmtừ cốđịnh
và thànhngữ (fixed and idiomatic expressions)
Cụmtừ cốđịnh (fixed expressions) là gì? Cứ
chiếutheo chữ mà suyra nghiã thì
"cụmtừ" là "nhómtừngữ", còn
"cốđịnh" là "khôngthayđổi",
"khó thayđổi". Muốn địnhnghĩa thì ta
cóthể nói "cụmtừ cốđịnh là nhómtừngữ
có môthức kếthợp chặtchẽ, khó thayđổi".
Thídụ "ruộng cả ao liền", "tócrễtre",
"congái rượu", "lênxehoa",
"cóđiềulà", "khổ một nỗi",
"khácnhau ởchỗ là", "nói tómlại".
Trong tiếngAnh ta cóthể đancử nhưng thídụ về
cụmtừ cốđịnh như "as a matter of fact"
(thật ra), "Ladies and Gentlemen" (Thưa Quívị),
"all the best" (chúc bìnhan vôsự), "
"crime does not pay" (thiênbấtdunggian),
"a leopard can"t change his spots"
(chứngnàotậtấy; chó đen giữ mực), "waste
not want not" (phí củaTrời mười đi khôngcó),
"as old as the hills" (xưanhưtráiđất),
"to jump out of the frying pan into the fire"
(tránh vỏdưa gặp vỏdừa).
Còn thànhngữ (idiomatic expressions hay idioms)
được địnhnghĩa là "cụmtừ cốđịnh, nhưng
có cấutrúc chặtchẽ hơn, và nghiã cuả chúng có
tính hìnhtượng hoặc gợicảm". Thídụ
"bacọcbađồng", "chó cắn áo rách",
"nhàngói câymít", "ông nóigà bà nóivịt".
Thídụvề thànhngữ trong tiếngAnh "to go to
the dogs" (sachân lỡbước/lầmchân
lạclối), "to make a mountain out of a
molehill" (chuyệnbéxérato), "to carry coals
to Newcastle" (chởcủivềrừng).
Như địnhnghĩa nêutrên, thànhngữ dịứng, đốikháng
(resistant) mạnhmẽ lại với mọi đổithay đem
ápđặt lên nó. Nó còn khácvới cụmtừ cốđịnh
ởchỗ là nó tốinghĩa, "tổnghợp nghĩa
từng phần của cụmtừ khôngphải là nghĩa toànthể
của cụmtừ đó ". Thídụ "to have cold
feet" nghĩa từngphần là "có bànchân
lạnh", nghĩa toànthể là "sợsệt",
hay "to drop a brick" nghĩa từngphần là
"đánhrơi hòngạch", nghĩa toànthể là
"phạm lỗi".
TiếngViệt có thànhngữ "yêu chó chó
liếm mặt" có nghĩa là "thươngyêu,
vồnvã kẻdưới cóthể bị họ lờnmặt, coihường".
Thànhngữ này nếu được giảngnghĩađen cho ngườiphương
Tây vốn yêu súcvật, thì rất cóthể sẽ bị
họ hiểulầm, vì họ nghĩ: "mình gầngũi thânmật
với chó, mình vuốtve nó, thì nó sẽ đáp lại
bằngcách liếm mặt mình, tỏcửchỉ mếnyêu, cógì
lạ đâu ". Muốn dịch ýcủa thànhngữ
"yêu chó chó liếm mặt" sang tiếngAnh
chắc ta cóthể tìm thấy tươngđương gầnnhất
là "familiarity breeds contempt" (quenthuộc
quá hóa khinhthường), mà trong tiếngViệt ta cũng
còn nói "gần chùa gọi Bụt bằng anh".
Có ba trườnghợp gây khókhăn cho phiêndịchviên
khi dịch thànhngữ và cụmtừ cố định: (1) Thànhngữ
hay cụmtừ cốđịnh khôngcó tươngđương trong
ngônngữ ngọn; (2) Thànhngữ hay cụmtừ cốđịnh
giống với ngônngữ ngọn, nhưng khác ngữcảnh
sửdụng; (3) Thànhngữ trong ngônngữ gốc được
đem dùng với cả nghĩađen lẫn nghĩabóng cùngmộtlúc.
4.6.1 Thànhngữ hay cụmtừ cốđịnh khôngcó tươngđương
trong ngônngữ ngọn:
Vì mỗi ngônngữ được tựdo chọn lốinói
của mình, và mỗi ngônngữ tiềmẩn trong mỗi
nềnvănhóa mộtkhác, nên từngữ đặctrưng vănhóa
cũng kháctheo, ta không đòihỏi, trôngđợi ngônngữ
này sẽ dùng đúng lờlẽ diễntả trong ngônngữ
kia để ta cóthể đơngiảnhóa chuyệndịch, làmcho
việcdịch trởnên dễdàng là chỉ phải dịch
"lời" mà khỏi phải dịch " ý
". Muốn dịch thì ta phải moilại trong trínhớ,
lụclại trong sáchvở, từđiển tụcngữ, thànhngữ,
phươngngôn xem có tìmđược cái " ý" tươngđương
không. Trong câu "to carry coals to Newcastle"
ta sẽ thấy phiêndịchviên mỗi nước dịch
" ý” một kiểu. Việtnam ta thì dịchtheo
lốinói của ngườiViệt là
"chởcủivềrừng", Pháp thì họ dịch là
"porter de l'eau à la rivière" (to carry water
to the river), "chở nước ra sông", Ðức
thì lại nói "Die Eulen nach Athen tragen"
(to carry owls to Athens), "chở chim cú về Nhãđiển".
Nhưng cũng có trườnghợp khôngcó tươngđương
cả về "lờ" lẫn " ý ". Thídụ
như ta nói "nợ sáchđèn", "tiênhọclễ
hậuhọcvăn", "phi caođẳng bấtthành
phuphụ" thì ta đànhphải dịch diễnnghĩa
(paraphrase) những câu đó sang tiếngAnh.
4.6.2 Thànhngữ hay cụmtừ cốđịnh giống
với ngônngữ ngọn, nhưng khác ngữcảnh
sửdụng (context of use):
Ta có thídụ trong tiếngAnh, "to go to the
dogs", cónghĩa là "to lose one"s good
qualities", tức là "làm mấtđi cáihay, cáitốt
của mình". Trong tiếngÐức họ cũng có thànhngữ
giống nhưthế "Zum Teufel gehen", nhưng
trong khi thànhngữ tiếngAnh dùng để nói về
một ngườihay một nơichốn nào, thì thànhngữ
tiếng Ðức lại có ngữcảnh sửdụng khác, nghĩalà
họ chỉdùng cho người, chứkhông cho nơichốn,
mà lại thường cónghĩa là "chết" (to
die), hay "bỏmạng, bị hủydiệt" (to
perish). Nói nômna theo kiểu Việtnam thì, nếulà
ngườita cóthể bảo "thằng/con đó nhưthế
là coinhư tiêuđirồi", hoặc, nếulà nơichốn,
thì cóthể nói "nơi/khu đó bị mang tiếngquá
rồi".
Trong tiếngViệt mình có thànhngữ "cháy
nhà ra mặt chuột", nghiãđen là khi nhà cháyrụi
rồi thì chuột chuirúc đâuđó trong nhà nóng quá
mà phải chạyùa ra, khôngcòn ẩnnấp đượcgì
nữa", nghiã thàn ngữ là "do có biếnđộng
xảyra mà phơibày, lộtẩy sựthật vốncó, khôngcòn
che đậy giấugiếm được nữa". TiếngAnh
họ nói "rats desert a sinking ship", nghiãđen
là "chuột bỏ tàu khi tàu đắm", nghiã
thànhngữ là "ngườixấunết khi hữusự thì
bỏchạy lo lấymình, khôngmàng ởlại giúpđỡ,
yễmtrợ cho ngườikhác". Cả hai thànhngữ
Việt Anh giốngnhau ởchỗ cùng nóivề
"chuột", hàmý ngườixấu, cùng nóivề
"khi gặp nguybiến", cùng nóivề "để
lộtẩy", nhưng câu thànhngữ tiếngViệt không
nóirõ là "giấugiếm bảnchất ngườixấu
nết thì nếtxấu đó là gì", trongkhi câu thànhngữ
tiếngAnh cho ta thấyrõ "nétxấu đó là tính
íchkỉ, chỉ biết lolấy mình, khi gặpnạn bỏ
ngườikhác sốngchết mặcbay". Vậy là
ngữcảnh sửdụng cuả hai câu thànhngữ có hơikhác.
4.6.3 Thànhngữ trong ngônngữ gốc được đem
dùng với cả nghĩađen lẫn nghĩabóng cùngmộtlúc:
Ðây là trườnghợp khókhăn thứba. Lấy thídụphiêndịchviên
phải dịch sang tiếngViệt một đoạn tiếngAnh
đăng trên báo Anhngữ đạikhái có ý nhưsau:
"Sau khi embégái 9 tuổi, tên là Mary, ở Luânđôn
bên Anh, bị khámphá ra là mắc bệnh AIDS, em này
đã bị phụhuynh họcsinh có con em học cùng trường
với em tẩychay, phảnđối với Hiệutrưởng và
Ban Giámhiệu khôngcho em vào học vì sợ em sẽ lâytruyền
bệnh cho conem của họ. Trước sự phảnđối
rầmrộ đó, nhàtrường đã quyếtđịnh "to
send Mary to Coventry", "một thịtrấn mạn
Tây Bắc Luânđôn".
Thànhngữ "to send someone to Coventry" (đưa
ngườinào tại Coventry) được ngườita dùng
theo cả nghĩađen lẫn nghĩa thànhngữ, và nhưthế
nó có cả hai nghĩa là: (1) em bị chuyểntrường
đến thịtrấn Coventry; (2) em bị tẩychay, khôngcho
đến trường. Trong trườnghợp nhưvậy, vì
Việtngữ khôngcó thànhngữ cùng diễntả hai nghĩa
như trên nên ngườidịch coi như bị bó tay, không
lộttả được "ý" muốn chơichữ của
ngườiviết trong tiếngAnh. Trong chuyện vuicười,
tiếulâm, nếu phải dịch chuyệncười nào mà
ngườikểchuyện lấy kiểu chơichữ làm cơbản,
chủchốt, thì phiêndịchviên coinhư sẽ "lãnhđủ",
chỉcòn cónước "cườiranướcmắt" màthôi.
5. Giảipháp dịchthuật
Nhìnchung, trong mộtsố những trườnghợp
hiểnnhiên ta thấy có mộtsố tươngđương mộtđốimột,
tươngđương tuyệtđối (absolute equivalence), cònlại
thì thựctế chothấy khácbiệt về kinhnghiệm, vănhóa,
vănminh, chínhtrị, tiếnbộ khoahọc, kỹthuật
của hai cộngđồng nói ngônngữ khácnhau là nguyênnhân
khiếncho phiêndịchviên, trong nhiều trườnghợp,
phải đ tìm cái tươngđương tươngđối
(relative equivalence), cái tươngđương gầnnhất
(nearest equivalence), song khôngphải vìthế mà không
phảnảnh trungthực mụcđích của tàiliệu ngônngữgốc.
Trong khotàng khá mớimẻ về chiếnlược
chiếnthuật phiêndịch, mà tiếngAnh họ quen
gọilà "translation strategies", hoặc
"translation procedures", ta cóthể nóiđến
các giảipháp dịchthuật nhưsau:
5.1 Chuyểnnguyênngữ (transference)
Thôngthường khi phải dịch từ Anh sang Việt
cho độcgiả là những ngườiđang sống ở nước
nói tiếngAnh, ngườita dùnglối chuyển nguyênngữ
(transference), tứclà dùng nguyên chữ tiếngAnh
trong bảnvăn tiếngViệt. Thídụ "đi
shop", "đi pub", "ở flat",
"bán sale", "lãnh lump sum".
Tuy nhiên, một bảnvăn quảngcáo gọi một
dịchvụ là "dịchvụ Break even" thì tôi
sợrằng chuyển nguyênngữ nhưthế là mình đã
đi quáxa, vì không mấy ai hiểu "break
even" làgì. Tôi nhớ mangmáng đã nghe được
quảngcáo này trên đàiphátthanh ở Melbourne về
dịchvụ giúp đỡ những ngườighiền cờbạc.
Liệu cóphải dịchvụ này nhằm giúp ngườighiền
cờbạc "không bị thua xiểngliểng nếu đi
đánhbạc" hay "đánh thuađậm rồi thì
được giúpđỡ vềmặt ytế, tàichánh để không
bị ảnhhưởng nặngnề đến cánhân mình và
những ngườithânyêu" hay không? Nếu
bảorằng mình cốý để nguyênchữ, hay chuyển
nguyênngữ tiếngAnh nhưthế để thuhút tòmò
của ngườiđọc, ngườinghe, trong trườnghợp này,
thì tôi lại sợrằng lậpluận đó khôngvững,
vì từ "break even" vừa khóđọc vừa khó
nhại. Tôi cũng đã thấy "dịchvụ
Lifeline" (đểnguyên không dịch hay cóthể nói
là đã dịch chuyểnnguyênngữ) cũng là dịchvụ
giúp ngườighiền cờbạc, liệu xem dịchra là
" dịchvụ Mạchsống (Lifeline)", còn
"dịchvụ Break even" là " dịchvụ
Thủhòa (Break even)" hay "dịchvụ
Thủhuề (Break even)" cóphải là giảipháp
hayhơn không, có đúng với mụcđích của
dịchvụ không?
5.2 Chuyểnâm (naturalisation)
Một lối khác tạm gọilà lối chuyểnâm
(naturalisation), tứclà nháitheo cách phátâm
tiếngAnh, rồi phiênâm ra tiếngViệt. Thídụ
"lane” chuyểndịch thànhra "lên”,
"gay (đồngtính luyếnái)" thành ra
"ghê", "compo" (chữ tắt của
"compensation" nghĩa là "tiền bồithường”)
thành ra "com bồ”, "lãnh redundancy
package" (nghĩa là lãnh trọngói tiềnbồithường
khi bị cho thôiviệc) thành "lãnh báchkệt",
"đánhtheo system" (tức là dùng "phươngpháp”
đánhbạc nàođó mà ngườita nghĩlà có nhiều
hyvọng thắng), thành "đánhtheo xíttầm,"
"bán sale” thành "bán xeo", "làm
nail" thành "làm nêu", "thịt
kangaroo" thành "thịt căngguru".
Ngườita đã thấy tên người, tên thànhphố,
tên quốcgia đã được dịch theo lốinày. Khi
chiếntranh Việtnam còn ở giaiđoạn đầu, một
Bộtrưởng Quốcphòng xaxưa của Mỹ đã được
đài "Tiếngnói Mặttrận Giảiphóng
MiềnNam" gọilà tên "Clác Clípphớt"
(Clark Clifford). NgườiMiềnBắc trongnước chỉ
biết tại thủđô của nướcPháp gọilà
"Pari" (Paris) chứ khôngphải là "Balê".
Tòađạisứ Úc tại Hànội có bảnghiệu đề
trước cửa là "Ðạisứquán Ốtxtrâylia
"(Australia).
5.3 Tươngđương vănhóa (cultural equivalence)
Với những từ biểuhiện đặctrưng vănhóa
(culture specific terms) thì ta dịch bằng từ tươngđương
vănhóa. Thídụ "HSC" (viếttắt của
Higher School Certificate dùng trong Tiểubang NSW) hay
"VCE" (viếttắt của Victorian Certificate
of Education dùng trong Tiubang Victoria) đã được
dịch là "Tútài Úc", hoặc "Tútài
HSC", hay "Tútài VCE", hoặc cũng cóthể
dịch là "Bằng Tốtnghiệp Phổthông
Trunghọc Úc", nếu muốn nhắmvào độcgiả
đã hoặc đang sống dưới chếđộ Cộngsản
ở ViệtNam.
Cóđiều trớtrêu là một chứcvụ trong đạihọc
Anh Úc là Vice Chancellor mà nếu dịchtheo tươngđương
vănhóa. thì cólẽ phải dịch là "Việntrưởng"
mới đúng, thay vì "Phó Việntrưởng",
bởi lẽ nhânvật này là trưởngnhiệm đạihọc,
quảnlýcả về họcvụ lẫn hànhchánh. Nếu
dịch là "Phó Việntrưởng", thì sẽ
bị hiểusai vaitrò của ngườigiữ chứcvụ đó.
Ðốivới ngườiViệt làm "Phó" cho ai là
mình chỉ đóng vaitrò thứyếu, khôngcó quyềnhành
gì, như cólần hồicòn nền Ðệnhị Cộnghòa
ở MiềnNam, cựu Thiếutướng Khôngquân Nguyễn
Cao Kỳ, nguyên Chủtịch Uỷban Hànhpháp Trungương
(tức là Thủtướng), đã chuaxót, mỉamai gọilà
chứcvụ "Phó Tổngthống" mà ông đảmnhiệm
saunày là chứcvụ "ngồichơi xơinước".
Còn "Chancellor" thì cólẽ phải dịch là
" Việntrưởng Danhdự" vì nhânvật này
không trựctiếp điềuhành đạihọc, chỉ có tên
trên danhnghĩa, đảmnhiệm một chứcvụ danhdự.
Khi nóivề chuyện sin đẻ, tùytheo kiếnthức
vănhóa của độcgiả mà ta phải dịch thờigian
cóbầu, mang thai của phụnữ bằng "ngàytháng"
thay vì bằng "tuầnlễ". Thídụvới câu
tiếngAnh "She"s 20 weeks pregnant" (Cô
ấy có bầu được 20 tuần), ở Úc, ở Việtnam
cókhi ta phảidùng tươngđương vănhóa mà dịchlà
"Cô ấy có bầu được 5 tháng". Tươngtự
"The baby weighs six pounds" (đứa bé cân
được 6 cân Anh) phải dịch là "đứabé cân
được hơn 2 kí 7". Hoặc "The two houses
are 100 yards apart" (Hai nhà cách nhau 100 mã
Anh) phải dịch là "Hai nhà cáchnhau chừng
100 thước". Nếu dịch cho độcgiả Việtnam
ở Mỹ, tức là những ngườiđã quen với
hệthống đolường của Anh Mỹ, thì ta phải tính
chuyện khác. Chúngta cũng đừngquên là ngườiViệt
ở Mỹ nay đã quen dùng "miles" để nói
về khoảngcách đoạnđường xagần và dùng độ
Farenheit để chỉ nhiệtđộ thờitiết.
Nóichung là ta phải biết mình đang dịch cho
ai và họ hiểuđược đếnđâu, họ quen nghe
lốinói nào. NgườiAnh, ngườiÚc, ngườiMỹ
họ gọi cái nhậnthức đó là "common
sense" mà họ đã địnhnghĩa ra là "năngkhiếu
tựnhiên khiến ngườinào có phánđoán thíchứng,
có hànhđộng thựctiễn và hợp lý”, mà tôi
quengọi nó là "nhậnthức thôngthường".
5.4 Tươngđương chứcnăng (functional
equivalence)
Cũng lại với những từngữ biểuhiện đặctrưng
vănhóa, ta còn cóthể phải ápdụng lốidịch tươngđương
chứcnăng, tứclà dùng một từchung, tổngquát
cộngthêmvới một từ hay cụmtừ mới môtả
chitiết nhiệmvụ, chứcnăng. Thídụ "Shadow
Cabinet" dịch là "Nộicác đốilập"
(chữ "Cabinet" dịch là "Nộicác"
còn chữ"Shadow" nghĩađen là "Bóngtối",
nhưng nếu dịch sátnghĩa sợ ngườiđọc không
hiểu, nên phải dịch là "đốilập"). Tôi
đãđược nghe thôngdịchviên hộinghị quốctế
cuả Hànội dịch "Shadow Cabinet" là
Nộicác Bóng". Tôi khônghiểu từ này đãđược
dịch nhưthế ở Việtnam hay là vì tínhcấpthiết
do côngtác đòihỏi mà thôngdịchviên, ngườitôi
thấy đã chứngtỏ có đầyđủ khảnăng và
nhiều kinhnghiệm, phải vội ứngbiến nhưvậy.
Một kiểu khác nữa là cắtnghĩa chứcnăng
cộngthêmvới chuyểnnguyênngữ đặt trong hai
ngoặcđơn. Thídụ "Open Day” thì dịch là
"Ngày nhàtrường mở cửa giớithiệu
sinhhoạt, tiệnnghi cơsở cho côngchúng vào xem
(Open Day)". Hay cóthể dịch ngắngọn hơn là
"Ngày giớithiệu trường/cơsở"(Open
Day)" cũng đâucósao? Tươngtự ta có từ
"Red Nose Day", đem dịchra thành "Ngày
quyêntiền/ymtrợ cho côngcuộc nghiêncứu hiệntượng
trẻem chết trong nôi (Red Nose Day), mặcdầu cònthiếu
yếutố "mua mũi nhựa tròn màuđỏ bằng
plastic đeovào mũi.
5.5 Tươngđương miêutả (descriptive equivalence)
Ngoài lốidịch tươngđương chứcnăng, ta còn
cóthể dùng lốidịch tươngđương miêutả, nhưng
tùytheo mụcđích của tàiliệu ngônngữ gốc mà
ta phải cânđo chọn giữa miêutả (description) và
chứcnăng (function). Thídụ "boomerang"
được miêutả là "cái khúccây cong cứng,
đẽo thànhhình giống như cáilưỡiliềm của
Thổdân Úc", còn chứcnăng của nó là
"dùng làm vũkhí phụgia để sănbẫy chimmuông".
Khi dịch chữ "Continental breakfast" ta
phải miêutả như sau: "bữa điểmtâm nhẹ
gồmcó bánhmì (hay bánhsừngbò) ăn với mứt ướt
(côngphituya), uống càphê hay trà". Lốidịch
giảngnghĩa này cóthể dùng làm cướcchú
(footnote), trongtrườnghợp dịch một đoạn
truyệnngắn hay tiểuthuyết mà chitiết này không
cầnthiết, còn trong truyện thì cóthể chỉ để
"bữa điểmtâm nhẹ" là đủ, mặcdù không
thấy nói gì đếnchuyện phânbiệt giữa
"Continental" nghĩa là "Âulục"
với "Quầnđảo Anh" (The British Isles).
Từ "hitchhiking backpackers" dịch
theolối miêutả là: "khác dulịch đeo balô
thường đứng bênđường vẫy xehơi/xevậntải
xin điquá giang". Ở ViệtNam nay họ gọi
những anh chàng này là "kháchdulịch balô"
hay "Tâybalô", cóthể là yếutố
"vẫyxe điquágiang" không xẩyra. Từ
"chemical castration" nghĩa là "trích
cho tộiphạm chuyêntrị hiếpdâm bằng những hoáchất
để khiếncho họ không còn thấy hứngtình
nữa". Ýniệm "castration" thì ngườiViệt
ta có, vì ta quen với việc "thiến chó",
"thiến mèo", "thiến gà",
"hoạn lợn", nhưng ta chưa thấy ai nói
"dùng thuốc để thiến", mà nếu nói
"dùng thuốc để diệtdục" thì liệu có
sợ bị hiểulầm là theo triếtlí nhàPhật mà
diệt mọithứ dụcvọng trên đi, mầmmống của
mọi khổđau, haykhông?
5.6 Dịch phóngtừ (calque)
Lốidịch phóngtừ này (tiếngPháp quen gọilà
"calque") còn gọilà lốidịch suốt
(through translation), lốidịch vaymượn (loan
translation), lốidịch ngữnghĩa (semantic
translation), hay lốidịch trựcnghĩa (literal
translation). Ðộngtừ "calquer" trong
tiếngPháp nghĩalà "cănke", "tôlên",
"phón lên", "đồtheo". Lốidịch
phóngtừ được ápdụng khi dịch nhưng
kếthợpngữ thông thường (collocations), tên các
tổchức, cơquan, thànhphần của những từkép
thông thường. Thídụ ta dịch "galloping
inflation" là "lạmphát phimã",
"European Union" là "Liênhiệp ÂuChâu",
"International Monetary Fund (IMF)" là "Quĩ
Tiềntệ Quốctế (IMF)", "call girl" là
"gáigọi", "eyeball" là "nhãncầu",
"superman" là "siêunhân". Nhìnchung
ta thấy từ nào cũng được dịch "đồtheo"
theo nguyênnghĩa của từ ấy, còn thứtự, vịtrí
của từ thì được sắpxếp lại theo cúpháp
tiếngViệt. Ngoạitrừ trườnghợp dùng tiếngHánViệt,
thì vịtrí của từ không thay đổi, chẳnghạn
như "nhãncầu," "siêunhân". Trong
từ "siêunhân" thì "super" phóngảnh
nghĩa của nó ra là "siêu", "man"
phóngảnh nghĩa của nó ra là "nhân",
thayvì dịch theo thứtự tiếngViệt là "*ngườiđànông
siêuđẳng" là từ mà ngườiViệt ta chưa
quen nói.
Là ngườiphiêndịch, ta cũng phải thậntrọng
trong lốidịch phóngtừ này, chớ tự sángtác phóngtay.
Từ dịchphóng phải là những từ đã nghe
quentai, bằngkhông ta sẽ có những cấutrúc,
lốinói đầy dịchtính (translationese) mà
diễnnghĩa nômna là văn Ta thì sặcmùi phômai, văn
Tây thì sặcmùi nướcmắm. Tỉdụ như
"Season"s Greetings" mà dịch là
"*Những Lời Chàomừng của Mùa", thayvì
"Cungchúc Tânxuân", hay "Chúcmừng Nămmới",
hoặc "body language" dịch là "*ngônngữ
thểxác", thayvì tùy trườnghợp, ngữcảnh,
vănmạch mà phải dịch là "cửchỉ",
"bộđiệu", "vẻmặt", "tháiđộ",
"hànhđộng", "ứngxử khônglời"
(nonverbal communication) hay "ngônngữ khônglời".
CóngườI sẽ không chấpnhận dịch "body
language" là "ngônngữ không lờí" vì
lído giảndị là "đã là ngônngữ thì phải
có lời" và sẽ kếtluận rằng " dịch
nhưthế là sai, là mâuthuẫn, không hợplí".
Ðốivới những ngườinày, ta cóthể việndẫn
hai điểm: (1) khôngthể đòihỏi ngônngữ phải
hợplí, phải có lôgích, nhiều khi ta tưởng là
cái hợplí đối với ngônngữ này, thì lại không
hợplí với ngônngữ kia, hoặc ngay trong cùng
một ngônngữ chỗ này hợplí mà chỗ khác thì
không; (2) tiếngAnh họ đã nói "human
language" mà mình đã dịch là "ngônngữ
loàingười", trong sáchvở họ đã viết
"animal language" mà mình đã dịch đâu đó
là "ngônngữ loàivật" và nghe coibộ xuôitai,
cóthể chấpnhận được, mặcdù biết rằng loàivật
đâucó nóithànhlời, đâucó ngônngữ, cóchăng là
thứ ngônngữ được ta hiểu là tiếngkêu,
tiếnggọi, hoặc điệuvũ rahiệu chonhau. Dịch
"body language" là "*ngônngữ thểxác"
, mà tôi đãđược nghe, cóthể bị ngườita
hiểulầm vì chữ "thểxác" gợi ý
"nhục dục của thânthể”.
Trong ngônngữ học có môn ngữdụnghọc
(pragmatics) là môn nghiêncứu về ýđịnh của ngườinói
và ýlãnhhội được, ýhiểu được của ngườinghe.
Nếu bảnvăn gốc trongđó "ông nói gà",
mà trong bảnvăn ngọn "bà hiểu vịt" thì
nhưthế tứclà phiêndịchviên đã không
thựchiện được cái "tươngđương
ngữdụng" (pragmatic equivalence). Ápdụng máymóc
lốidịch phóngtừ để dịch "Rape
Centre" thành "Trungtâm Hiếpdâm" thì
chỉ tổ vôtình "nốigiáochogiặc". Còn
"Justice of the Peace (JP)" (ở Úc nghĩa chính
cuả cụmtừ này là ngườikítên chứngnhận côngchứngthư)
mà đem dịch là "Thẩmphán Tòaán Cônglí Hòabình"
vào tấm danhthiếp của mình khi giaodịch với đồngbào
ở quênhà là cốý "nhậpnhằng đánhlận
conđen".
6. Kếtluận
Trongviệc dịchthuật nó có cái bấtcông
ởchỗ là khi mình dịch hay, dịch đúng thì cũng
không mấy ai biết mà khen vì họ đâucó bảnvăn
gốc đem đốichiếu đểmà biết những camgo,
cạmbẫy mà ngườidịch đã trải qua, đã tháogỡ.
độcgiả coi đó nhưlà chuyện tựnhiên, không
thắcmắc. Chỉ khi nghethấy cái gì lạtai, đọc
thấy cáigì gaimắt thì lúcđó ngườinghe, ngườiđọc
mới nhănmặt, caumày, chêlấy chêđể. Chuyện
dịchthuật , nhấtlà tronglúc bị côngviệc thúcbách,
đòihỏi ứngphó tứckhắc, hoặc tronglúc phải
dịch liênmiên, ngàynày qua ngàykhác, thì "đi
đêm lắm cũng có ngày gặp ma". Ai mà
chảvậy. Kểcả những dịchgiả "số dzách"
hoànvũ, chắclà họ cũng biết trọng chữ thành
chữ tín để không ngầnngại mà nhìnnhận
rằng mình đã có hơn một lần lầmlỗi.
Tôi nhớlại gần haichục năm vềtrước trong
Ban Việtngữ ựài BBC Luânđôn, vào đầunăm
1980, khi Chủtịch Nhànước Cộngsản ViệtNam Tôn
Ðức Thắng từtrần, thì bỉnhbút Ðài BBC thi
đó là bà Judy Stowe có viếtbài aikhải (obituary)
nóivề côngđức và sựnghiệp của ông này đểcho
phátthanh về ViệtNam. Trong bàiviết, nữ kígiả
ngườiAnh này có dùng chữ "figurehead" để
môtả vị Chủtịch họ Tôn. Từ
"figurehead" này đãđược một ngườibạn
đồngnghiệp của tôi thời đó dịch là "bùnhìn",
thì bị một đồngnghiệp khác phảnđối,
chorằng dịch nhưthế là khôngđúng, vì "bùnhìn"
nghĩa là "puppet". Tôi khôngnhớ là anh đồngnghiệp
tốgiác bạnmình dịch sai đã đềnghị chữ nào
mớilà dịch đúng, mà chỉ còn nhớ là nộivụ
sauđó được đem ra trình với anh Trưởngban
Việtngữ ngườiĂnglê. Tưởngcũngnên nhắclại
ởđây là Chínhphủ Hànội đã gọi Chínhphủ
ViệtNam Cộnghòa trướckia là "Chínhphủ
Nguỵ" mà tiếngAnh đã được dịchra là
"Puppet Government", cónghĩa là "Chínhphủ
bùnhìn".
Nếu gọi Ông Tôn Ðức Thắng là "bùnhìn",
dịch từ chữ "figurehead" ra, cóđúngkhông?
Theo tôi nghĩ, nếu chúng ta đượcdịp đọc kĩ
lại bàiviết của bà Judy Stowe để xem thêm
giọngđiệu, chê hay khen, của bà trong toàn bài
aikhải thì mayra ta cóthêm ýkiến để cóthể
quyếtđịnh chọnchữ nào dịch cho đúng, mà
chữ đó chưa biếtchừng trong từđiển chưacó,
hoặc khôngcó liệtkê dùng để dịch chữ
"figurehead".
Nóitómlại, khi đitìm cái tươngđương để
dịch saocho đúng, saocho chínhxác, hay nói đúnghơn
sa cho thíchhợp (appropriate), khôngphải là
chuyện dễ. Nó tùythuộc vào nhiều yếutố,
chẳnghạn như mụcđích tàiliệu, thểloại tàiliệu,
đốitượng độcgiả, thựcthể của hai ngônngữ
mụctiêu, mà nếu nói hết ra thì loạtbài này còn
cóthể phải kéodài thêm được ítnhất là 10 bài
nữa và nhưthế chắc sẽ nhàmtai, mỏimắt quývị
độcgiả, nhấtlà đốivới những vị nào khôngmàng
nhiều đến chuyện dịchthuật, đến chuyện
tiếngTây tiếngTa.
Vì khuônkhổ hạn hẹp cuả tờbáo, nên cuộc
hànhtrình "đitìm cáitươngđương trong phiêndịch"
tạiđây vẫn chỉ là cuộc lặnlội đitìm, mà
chưa thựcsự là đã tìmthấy hết nơi hết
chốn. Âucũnglà dịp để dànhcho quý độcgiả
nào mê thơ cuả Hồ Dzếnh khỏi phải
thấtvọng vì " Ðời hết vui khi đã vẹn câuthề".
Loạt bài nàyđã đăng trong Nguyệtsan
Thếkỷ 21, [Số 125 (September), 126 (October), 127
(November, 1999)]
Frank
Nhật Trịnh
Nguyên
Giảngsư Ðạihọc MiềnTây Sydney
University of Western Sydney
Australia
Tàiliệu Thamkhảo
Baker, M. In Other Words: A Course Book on
Translation. London: Routledge, 1992.
Benson,M., E. Benson, R. Ilson. The BBI Combinatory
Dictionaryof English. Amsterdam: John Benjamins, 1993.
Berlin, B.& P. Kay. Basic Color Terms: Their
Universality and Evolution. Berkley: University of
California Press, 1991.
Carroll, J.B. (ed) Language, Thought, and Reality
(Selected Writings of Benjamin Lee Whorf). Cambridge: MIT
Press, 1956.
Carter, R. Vocabulary: Applied Linguistic
Perspective. London: Allen & Unwin, 1987.
Collins Cobuild English Dictionary. London:
HarperCollins, 1995.
Ðào, Duy Anh. Hán Việt Từđiển
(ấnbản inlại). Hồ Chí Minh: NXB TP HCM, 1996.
Ðào, Thản. "Hệthống từngữ chỉ màusắc
của tiếngViệt trong sự liênhệ với mấy điều
phổquát". Trong tạpchí Ngônngữ. Số
2. Hànội: Viện Ngônngữhọc, 1993.
Fernando, C. Idioms and Idiomacity. Oxford:
Oxford University Press, 1996.
Hartmann, R. R. K. "Equivalence in Bilingual
Lexicography: From Correspondence Relation to
Communicative Strategy". Papers and Studies in
Contrastive Linguistics. Jacek Fisiak (ed.). Poznan:
Adam Mickiewics University. Vol. 22 (1988), 2128.
Hoàng, Phê. Từđiển TiếngViệt. Hànội:
NXB Giáodục, 1996.
Kirkpatrick,E.M. and C.M. Schwarz (eds). Idioms.
Edinburgh; Chambers, 1991.
Lyons, J. Introduction to Theoretical Linguistics.
London: Cambridge University Press, (1971).
Mai, Ngọc-Chữ, V. Ð, Nghiệu, H.T. Phiến. Cơsở
Ngônngữhọc và TiếngViệt. Hànội: NXB Ðạihọc
và Giáodục Chuyênnghiệp, 1991.
Nattinger, J.R. and J.S. DeCarrico. Lexical Phrases
and Language Teaching. Oxford: Oxford University
Press, 1992.
Newmark, P. A Textbook of Translation. London:
Prentice Hall, 1988.
Nguyễn, Ðình-Hoà. Vietnamese (TiếngViệt
không sonphấn). Amsterdam: John Benjamins, 1997.
Nguyễn, Như-Ý, N.V. Khang, P.X. Thành. Từđiển
Thànhngữ Việtnam. Hànội: NXB Vănhóa, 1993.
Thompson, L.C. A Vietnamese Grammar. Seattle:
University of Washington, 1965.
Ýkiến bạnđọc nhân
đọc bàiviết nầy:
|