Click here for "Suadoi Cachviet ChuViet" (Khongzau , VNI font version)
dchph
ABSTRACT OF THE ENGLISH VERSION
Why Vietnamese2020? Vietnamese2020 is a new Vietnamese writing system in the years to come and that should be the way Vietnamese will be written in the year 2020. This is a proposal and analysis of the needs to reform the current Vietnamese writing system, which will have a slightly different appearance from what it is known today.
This proposed writing reform, above all, ideally would expose monolingual native learners to symbolic patterns that would have positive effects on abstract and collective thinking by means of a polysyllabic way of writing, i.e., writing all syllables of a word in a combining formation. This cognitive process can be achieved via, one among other things, its pre-defined text strings of whole words appearing with peculiar shapes in their entirety, which would resemble much more of a graphical representation of concepts rather than syllabic spellings. In a polysyllabic word formation its meanings are tightly bound to its symbolistic shape of combined syllables, which is to achieve the same effects as those of ideographs. In English or German writing systems polysyllabic words show that type of symbolistic characteristic and, in a way, they are usually perceived abstractly through shapes of respective long text strings.
On the contrary, with the Vietnamese monosyllabic writing system, readers have to, mentally, go through the process of, firstly, recognizing each one of those separately written syllables, making sense out of it individually, and only then, lastly, being able to comprehend meanings of the final mentally assembled words. Polysyllabic scripts, in the meanwhile, enable readers' brain to absorb larger batches of continuous text strings, which will render a similar visual effect as those of ideograms. We will recognize the conceptions of words right away simply just by catching the sight of strings of polysyllabically combined words. Those who have already possessed advanced knowledge of a foreign language, especially German, might have already experienced such highly visual effects.
Being an inferior form, a monosyllabic writing system can only represent one syllable at a time as in the case of the present Vietnamese orthography. It is not hard to see that if all databases had been built the way as a monosyllabic "Vietnamese dictionary" is structured in a monolingual native Vietnamese speaker's brain then the world might have come to know different kinds of databases far less ideal than what the computing world has achieved to date!
As a matter of fact, Vietnamese is no longer a monosyllabic language, but, in writing, syllables which make up a polysyllabic word are still written separately, just like the way the Vietnamese had handled block-written Chinese characters before the end of 19th century. For example, in today's Vietnamese orthography words like "học bổng" (scholarship), ''bâng khuâng" (melancholy), "bâng quơ" (vague), "ma tuý" (narcotic), and thousands of others, obviously dissyllabic in nature, are still written in separate syllables as such. Writing that way is exactly the same as breaking those polysyllabic English words into separate syllables as "scho lar ship", "me lan cho ly", "va gue", or "nar co tic", etc.
It does not matter in what language, monosyllabic writing is illogical and unscienific. The cited dissyllabic Vietnamese words above should be accurately written in combining formation as "họcbổng", ''bângkhuâng", "bângquơ", "matuý", respectively. That polysyllabic way of writing will precisely representing the true dissyllabic characteristics of today's Vietnamese. Again, if English had been written the way Vietnamese is, it would have never become the technical language tool in the modern computing technology with such popularity worldwide as it is enjoying today.
A society progresses if its language progresses. Stagnance of Vietnamese monosyllabic way of writing, as a result, has hampered Vietnam's advancements in many ways including those of developments in computing fields. It is painful to reform, but we have to do it.
This new proposed writing system, ideally in a sense, will lay out a foundation for building blocks of polysyllabic principles. Its final results will lead to the development of new guidelines to build a standardized polysyllabic writing system. In the long run, this new Vietnamese polysyllabic orthorgraphy purposedly will foster children's ability to learn things abstractly and collectively. At the same time, this will also create a favorable condition for data processing fields to progress properly, which, in return, will stimulate economic development.
Please join us in this writing reform effort NOW by starting to write Vietnamese in the combining formation of syllables for each word-concept. For now emails and internet postings are a few good places to begin with. In practice, while awaiting official orthography guidelines, hopefully, from a governmental body such as a national language academy, the easiest way for those who already know a foreign language, when in doubt, is to think of an equivalent word in English or in another common foreign language since all of them is totally written in polysyllabic formation as having been known to the world as of the present day. For example, for "although" we have "mặcdù", for "blackboard" > "bảngđen", "faraway" > "xaxôi", and so on. With regard to building a successful polysyllabic writing system, the German writing system is highly recommended as a good model to serve as a referent framework or building blocks to devise a new Vietnamese script.
Let's be the first pioneers of a new Vietnamese language reform to set new polysyllabic standards in the years to come! Do not think that you are going to waste time on something unrealistic. It is a noble cause that will benefit our nation in terms of stimulating our children's abilities to think abstractly and collectively, which is the foremost reason behind this proposed Vietnamese writing reform. If we all go for it or simply just say "yes" to the peoposed reform, our voice will be heard and our dream will become a reality. All you need is to act, quickly.
Click here to read an English version of this writing
x X x
Ngônngữ là một thuộctính bềnvững và biếnđổi
chậmnhất của một dântộc. Ðặctính của ngônngữ là
tổnghợp những biểuhiện đặcthù tạothành ngônngữ đó. Trong
quátrình pháttriển lịchsử, tínhcách của ngônngữ có thayđổi
với một mứcđộ ítnhiều khácnhau, nhấtlà về hìnhthức, ở cáivỏ
biểuhiện bềngoài của tiếngnói, đólà chữviết của một ngônngữ.
Tuỳtheo nhucầu lịchsử, một dântộc cóthể có nhucầu thayđổi
cáchthểhiện tiếngnói của mình qua chữviết để thíchhợp
với nhucầu của thờiđại. Nhiều nước tiếnbộ trên
thếgiới ngàynay trong quátrình pháttriển đã phải thôngqua giaiđoạn
cảicách chữviết vì đólà một quátrình tấtyếu.
ChữViệt chúngta đang sửdụng không phảnảnh đúng mộtcách
khoahọc thựctrạng tiếngViệt ngàynay. Cáchviết chữViệt
hiệntại cầnphảiđược cảitổ hay sửađổilại khôngchỉ để
phùhợp tiếngnói màcòn manglại những lợiích thiếtthực trong
việcxửlý thôngtin nhanhchóng và chínhxác trong bộóc conngười cũngnhư
máyvitính tạođiềukiện trựctiếp hoặc giántiếp gópphần pháttriển
Việtnam trong lãnhvực kỹthuật của thờiđại hômnay.
Thayđổi một thóiquen, nhấtlà thuộc lãnhvực ngônngữ, rấtkhó
nhưng nếu cầnphải cảicách, khôngphải là khôngthể thựchiện
được. Ðứng trên một quanđiểm nàođó, cảitổ cáchviết
tiếngViệt khôngđược xem nhưlà một yêucầu cấpbách, nhưng
nếu quảthực sựcảitổ manglại lợiích cho nướcnhà, chúngta
phải hànhđộng.
Ðể thựchiện cảitổ cáchviết tiếngViệt hiệnnay, chúngta
cần xemxét vấnđề dưới nhiều khíacạnh để trảlời những
câuhỏi của các vấnđề liênhệ: hiệntrạng của cáchviết
tiếngViệt, tạisao lạiphải cảicách, và làmsao để thựchiện
cảicách?
HIỆNTRẠNG CỦA CÁCHVIẾT TIẾNGVIỆT
Trong lời màođầu, chúngta có nhắctới tínhcách của một ngônngữ,
cụthểhơn đólà đặctính của tiếngViệt. Vậy đặctính cơbản
của tiếngViệt là gì và hìnhthức gì của nó đã thayđổi qua
các thờiđại? Trảlời câuhỏi nầy dưới lăngkính ngônngữ
lịchsử sẽ làm ta nhậnthấy rõnét hơn hiệntrạng của
tiếngViệt. Ðólà một ngônngữ tổnghợp âmtiếttính và thanhđiệutính,
là kếtquả của một tiếntrình pháttriển ngônngữ
lịchsử lâudài đitừ đơnâmtiết sang đaâmtiết, từ đơnthanhđiệu
sang đathanhđiệu. TiếngViệt lịchsử là toàlâulài bằng
chấtliệu tiếngHán cất trên cáinền và cáisườn của một
thứ tiếngViệt tháicổ cóthể làđã pháttích từ cáicốtlỗ
của một ngônngữchung nàođó đã phátnguồn và triểnkhai thành
nhiều ngônngữ thuộc ngữhệ -HánTạng.
Cái tiếngViệt tháicổ nầy trong quátrình pháttriển đã
thẩmnhập và tiêuhoá (Việthoá và HánViệthoá) hàngngàn
từngữ từ tiếngHáncổ và tiếngHán của nhiều thờiđại, cóthể
đã xảyra trước thời Tần-Hán 221 năm trước Côngnguyên (thídụ
từ "vuquy", "thángchạp" đượcdùng vào đời
Tần, ngườiTrunghoa ngàynay khôngdùng những chữ này) chotới ngàynay
(thídụ từ "khôngdámđâu", "baxạo", "
tầmbậy", " phaocâu", "dêxồm", v.v...
Trong quátrình nầy bướcpháttriển lịchsử của Việtngữ đã
rậpkhuôn theo cáchcấutừ của tiếngHán, nhấtlà sựhìnhthành
những từkép haylà từ songâmtiết (dissyllabic words). Nhưvậy, ngàynay
đặctính hay tínhcách của tiếngViệt là mang thanhđiệuhoá songâmtiếttính
(dissyllabicism), tứclà chứa nhiều từkép (trongđó baogồm
cả từghép và từláy gồm có haivần, hay hai âmtiết), được
viết dưới hìnhthức mẫutự Latin rờira từng tiếngmột hay
từng âmtiết (vần) một. Trong tiếngViệt đasố từkép có một
sốlượng lớn âmtiết cóthể đứngđộclập như một từ và có
ýnghĩa đơnbiệt. Ðiều nầy chothấy tiếngViệt đã
biếnchuyển từ tínhcách đơnâmtiết sang đaâmtiết. Trong quátrình
biếnđổi nầy, nhiều từghép đã trởthành một đơnvị toànthể,
khôngthể táchrời vì nhiều từghép đã trởthành từkép, nếu
chúng bị táchrờira, những tiếng bị táchrời sẽ khôngcòn mang
ýnghĩa nữa. Thídụ: mãtà, càgiựt, càlăm, cùlần, càmràm, lãngnhách,
xíxọn, bợmtrợn, dưahấu, basạo... Nhưvậy tiếngViệt của chúngta
ngàynay khôngcòn là một ngônngữ đơnâmtiết.
Mộtsố nhàngữhọc lại chorằng thựcsự tiếngViệt từ thời
tháicổ đã có hìnhthái phụâm phứchợp và đaâmtiết như
nhiều ngônngữ khác thuộc mgữhệ Mon-Khmer, và họ cholà
tiếngViệt đã biếnđổi từ tínhcách đaâmtiết sang đơnâmtiết
do sựảnhhưởng của tiếngHán. Ýkiến của họ cũng đángchúý
vì bảnthân của tiếngViệt cóthể là từxưađếnnay khônghẳn
thuầntuý là một tiếngnói đơnlập đơnâmtiết (mono-syllabic and
isolated language), chứngcớ là nhiều từ cơbản trong tiếngViệt
tựnó baogiờ cũnglà những từsongâmtiết nhưlà màngtang, mỏác,
đầugối, khuỷtay, bảvai, cùichỏ, mồhôi, cùlét v.v...và
thậmchí ngườita còn tìmthấy mộtít những từ đaâmtiết (polysyllabics)
trong tiếng "thuần Việt" (ởđây mang ýnghĩa tươngđối
đốivới những từ được chọn chỉ để làmthídụ):
xấcbấcxangbang, bảlápbảxàm, gióheomay, ngủlibì, dốtđăïccánmai,
cờbayphấtphới, mưalấtphất, balăngnhăng, lộnxàngầu, mêtítthòlò,
bađồngbảyđổi, lộntùngphèo, tuyệtcúmèo, bachớpbanháng... và
phụâm phứchợp còn hiệndiện trong tiếngViệt chođến thếkỷ
17: blời, blăng (cóthể saunầy biếnthành "mặttrời",
"mặttrăng" theo conđường b > m, rồi m âmhoá thành
"mặt" chăng ? Nếu đúng, cáchbiếnđổi nầy giốngnhư
trườnghợp "khlong" thành "khủnglong" của
tiếngHán. Nhưng trong thí`dụ cụthể nầy, theo ngữâmhọc,
khảnăng phứcphụâm bl- biếnthành đơnphụâm tr- rấtcao.)
Với cáchnhìn nào, tínhcách songâmtiết của tiếngViệt ngàynay
rất rõnét. Ðặctính nầy đốilập với tínhcách đơnâmtiết
của mộtsố lớn từvựng cổ của tiếngViệt, giốngnhư
tiếngHán, vì rấtnhiều từsongâmtiết trong tiếngViệt hiệnnay
chứa hai yếutố (hai tiếng, hay âmtiết) đều đồngnghĩa:
tứcgiận, trướctiên, cũkỹ, kềcận, gấprút... Ðặcđiểm
nầy thểhiệnra tínhcách đơnlập [phảnđề của songlập, là tínhcách
đặcbiệt của tiếngViệt] của Việtngữ: từvựng pháttriển
từ đơntiết đến songâmtiết dựatrên sựkiện ôngcha chúngta
đã ghép haitiếng đồngnghĩa lại vớinhau để tránhsự đồngâm
và để minhxác ýnghĩa đơnthuần của từ đơnâm để khỏi bị
lẫnlộn với từ đồngâmdịnghĩa khác. Trong tiếngHán hiệnđại,
từ songâmtiết có hai âmtiết đồngnghĩa đasố đềuđược
cấutạo theo lối nầy. Tínhcách nầy đã gây ngộnhận cho
mộtsố nhà ngữhọc phươngTây, họ đã dựavào tínhcách này để
kếtluận là TiếngViệt là một ngônngữ đơnlập.
Hìnhthức biểuhiện của tiếngViệt khoảng một thếkỷ trướcđây
là nhờvào chữHán, là ngônngữ có cơchế pháttriển từvựng
giốngnhư của tiếngViệt. Khi ôngcha chúngta có nhucầu muốn
thểhiện những âmthanh mà tiếngHán khôngcó, họ đã biếnđổi
hìnhthức chữHán sang chữNôm cáchnay nhiều thếkỷ.
Khi chữQuốcngữ (tiếngViệt viết bằng mẫutự Latin) được các
nhàtruyềngiáo phươngTây sángchế ra để kýâm tiếngViệt vào
thếkỷ thứ 17, họ cũng đã nhậnthấy tính songâmtiết của
tiếngViệt và họ đã dùng dấugạchnối - để nốilại những
từ nầy thành từkép. Và lốiviết gạchnối nầy còn tồntại
đến cuối thậpniên 1960. Hiệnnay thì đasố ai cũng viết rờira
thành từng chữmột, vừa do thóiquen và vừa do tínhlườibiếng
tậpthành.
Và nhưvậy rõràng là cáchviết tiếngViệt ngàynay khôngcòn
phảnánh đúng thựcthể tiếngnói nữa, vì với một sốlượng
vốn từkép Hánviệt (thídụ: tổquốc, phụnữ, giađình, cộngđồng....),
từ Hánôm haylà từ Nôm songâmtiết có gốcHán (sinhđẻ,
dạydỗ, lạnhlẽo, nhờvã...), và từ "thuầnViệt" (mặccả,
bângkhuâng, ngọtngào, mồcôi, hiuquạnh...) khổnglồ hiệndiện
trong tiếngViệt ngàynay, cáchviết táchrời từng âmtiết là
một cáchviết không phảnảnh đúng mộtcách khoahọc bảnthân
của tiếngnói nướcnhà nữa.
Ai cũng thừanhận tiếngAnh là tiếng đaâmtiết (thựcsự tiếngnói
nào trênthếgiới ngàynay cũng đều đaâmtiết cả, nếucóchăng
tiếng đơnâm thì đólà ngônngữ cổxưa; ngônngữ phải pháttriển
từ cáigiảnđơn sang cáiphứctạp.) Ðem tiếngAnh ra sosánh, ta cũng
cóthể nhậnthấy trong tiếngAnh nếu ngườita loạitrừra hết
những yếutố vaymượn từ Latin hay Hylạp và chỉcòn giữlại
những từ gốcAnglo-Saxon, thì tiếngAnh sẽ hiệnra cáibảnchất
gầnnhư đơnâmtiết của nó: go, keep, run, walk, eat, sleep, morning,
(<morn), evening (<eve) before (be+fore)...
Chúngta cóthể sosánh những từ "thuầnAnh" những từ
"thuầnViệt" (ýnghĩa tươngđối để sosánh, chứ bảnthân
của những từ sau đều cóthể có gốcHán) với những từ
Việt tươngtự: ăn, ngủ, đái, ỉa, đi, đứng... Cóngười sẽ
nói: nhưng tiếngAnh là một ngônngữ biếnthể, họ còn có dạng
eater, keeper, walker, sleeper... trongkhiđó tiếngViệt là một ngônngữ
đơnlập (?) làmgì có biếnđổi hìnhthái mà sosánh? Hãy xemxét hìnhthức
nầy của tiếngViệt: artist = nghệsĩ, singer = casĩ, writer=vănsĩ,...
nếu chúngta quyước -sĩ=-s, thì ta có nghệs, văns, hoạs, nhạcs,
quâns, hay -gia=-z thì ta có tácz, luậtz, sángchếz, hay sự-=s- thì
ta có stình, scố, sviệc, sthể, hay -thuật=th thì ta có kỷth,
nghệth, math, mỹth, hoặc f-=phi thì ta có flý, fquânsự, fnhân,
fliênkết, fchínhphủ... Vậy -s, -z, s-, -th, f- cóthể vínhưlà
những ngữõtố (suffixes) có chứcnăng khôngkhácgì suffixes của
tiếngAnh. Ngônngữ nhưvậy chẳngqua là những quyước và côngước.
Trong quátrình tiếngAnh pháttriển và thẩmnhập những yếutố
ngoạilai khác, bảnthân cáchcấuthừ của tiếngAnh cũng theo cáchcấutừ
của ngônngữ ngoạinhập: therefore, anybody, however, nevertheless,
blackboard, gunship, eyebrow, armchair... Khi viết chữAnh ngườita khôngbaogiờ
cắtđứt âmtiết ra nhưng khi ngườiViệt viết chữViệt chúngta
lại cắtra thành từng tiếngmột, bấtkể từ bị cắtra bảnthân
nó đôikhi không cónghĩa theo nghĩa ngữvựng như chúngta hiểu ngàynay:
bâng/khuâng, hồi/hộp, mồ/hôi, tai/tiếng, mặc/cả, cù/lét....
Bạn có baogiờ thử tựhỏi: "bâng" làgì? "khuâng"
làgì? Và rồi "hồi" làgì? "hộp" làgì?, "mồ"
làgì? "hôi" làgì? "tai" làgì?, " mặc" làgì?
"cả" làgì? "cù" làgì? "lét" làgì? Chúng
chỉ cónghĩa khi chúng đichung vớinhau, khi ta phátâm ta cũng phátâm
thành cặp, nhưng thếsao chúngta khi viết những từkép nầy chúngta
lại tách chúng ra? Nếu kểthêmvào từvựng Hánviệt và từNôm
có gốcHán (Hánnôm), sốlượng từ songâmtiết nhiềukhôngkểxiết,
và những từ này chịuchung sốphận của lưỡibút lườibiếng
của chúngta cắtngang. Rõràng là lốiviết nầy phảnánh tính
thiếu khoahọc và không tiếnbộ của ngườiViệtnam!
TẠISAO PHẢI SỬAÐỔI CÁCHVIẾT HIỆNNAY
Giốngnhư cái nhãn 4000 năm vănhiến, chúngta tựmãn đãlâu với
disản Quốcngữ và mang tâmlý ùlì, ngại thayđổi. Ðó là một
khuyếtđiểm của người Việtnam, cộngthêmvới tính ưa phảnđối,
khi có aiđềxướng cáigì mới mà mình khôngthích là phảnđối
ngay dù chẳngbiết là tạisao lại phảnđối? Dù đã có khôngít
người như các vị Lãng Nhân Phùng Tất-Ðắc (hiện ở bên Anh),
Giáosư Phạm Hoàng-Hộ (ở Canada), Giáosư Trịnh Nhật (Úc), Giáosư
Dương Ðức-Nhự, cụ Ðào Trọng-Ðủ, và những vị ủnghộ ýkiến
về tính đaâmtiết của tiếngViệt như là cụ Hồ Hữu-Tường,
Giáosư Nguyễn-Ðình Hoà, Giáosư Bùi Ðức-Tịnh..., nhậnthấy
những saisót trong cáchviết tiếngViệt ngàynay, nhưng tiếngnói
của họ bị phảnđối khíchbác rồi chìm trong quênlãng. Ngàynay
tiếnbộ kỹ thuật và cuộc cáchmạng tinhọc về liênmạng toàncầu
chophép chúngta cùngnhau dấyđộng côngcuộc cảitổ cách viết
chữViệt của chúngta ngàynay saocho nó cólợi, và cái lợi của
nó manglại phải nhìnthấy được trong các lĩnhvực khoahọc
kỹthuật, vá tácđộng của nó đốivới sự pháttriển kinhtế
nướcnhà.
Nhưđãnói, cáchviết chữViệt ngàynay chứa một saisót
trầmtrọng trong hìnhthức biểuđạt những kháiniệm mà khi nói
chúngta phátâm điliền vớinhau không ngắtquảng. Ðã thấy sai thì
chúngta phải sửa, chứ đừng để cho những nhàngữhọc phượngTây
thiếu amhiểu bachớpbanháng thoạtnhìn cáchviết của chúngta là
đã hôhoán lên: tiếngViệt là tiếng đơnâmtiết (monosyllabic) và
đơnlập (isolated) -- họ cóthể hàmý tiếngViệt chúngta còn thôsơ,
chưa pháttriển, lạchậu, và nghèonàn. Họ đâucần biết chi đến
bốn nghìn năm vănhiến gìđó của ta. Họ có baogiờ bỏ
thờigiờ nghe ta giảithích những hìnhthức đạiloại "nghệs",
"flý" kểtrên. Nếu cảitổ cáchviết mộtcách triệtđể,
chúngta cóthể làm vậy (biếnthểhoá thành hìnhthái những
ngữtố 'suffixes'), thậmchí khôngcần bỏdấu nữa. Nếu cảitổ
theokiểunầy thì đâylà một hìnhthức mà ngườingoạiquốc
học tiếngViệt sẽ rất hoannghênh vì khi học từvựng
tiếngViệt, họ sẽ học cáitoànthể: conđường=road, bầutrời=the
sky, quảđất=the globe... "con" đichung với "đường",
"bầu" đichung với "trời", và "quả" đichung
với "đất"; nhờđó họ khôngcòn phải thắcmắc về cách
chúngta nói khi thì "con", khi thì "bầu", khi thì
"quả"... họ sẽ nói tạisao không dùng hết
"con" hay "cái" cho nó tiện! Thựcsự khôngphải
ngônngữ chúngta sửdụng có quánhiều loạitự (classifiers) mà
bởilẽ cáchviết rời của những từ có loạitự nầy làm ngườita
rốitrí. TiếngHán cũng có một sốlượng loạitự rấtlớn ynhư
loạitự của tiếngViệt, nhưng khi người ngoạiquốc học
tiếngPhổthông (Quanthoại) thôngqua hệthống phiênâm Latin pinyin
của Trungquốc, họ chẳng thắcmắc gì bởilẽ phầnlớn những
từ thường đicặp với loạitự thường được viết dínhliền
nhau hoặc đichung vớinhau.
Nhưng chúngta khôngphải cảicách chữviết là để cho người
ngoạiquốc học hoặc phêphán. Dođó chúngta sẽ không sửađổi
cáchviết tiếngViệt mộtcách triệtđể nhưvậy và những
minhhoạ trên chỉ nhằm nhấnmạnh đến tínhcách của
tiếngViệt đã bị chữviết "phânhoá" và phảnbội. Khi
nói ta không táchrời âmtiết ra, tạisao khi viết chúngta lại
cắtra? Cóngười đã nói, đólà do thóiquen, vì ngônngữ là thóiquen,
mà đãlà thóiquen và ai cũng dùng và chấpnhận thì khôngthểnào
sửađổi. Câu nầy nghe rất quentai phải không? Bạn nghĩsao?
Bạn thích ăn thịtbò nhiều, nhưng thịtbò lại chứa nhiều
chất mỡ cholesterol, nhưng ăn quen rồi bỏ khôngđược. Cáitaihại
chínhlà ở chỗ này. Khi hiểurõ những bấtlợi hoặc taihại
trong cáchviết chữViệt hiệnđại, colẽ chúngta nên xemxét vấnđề
và thayđổi theo chiềuhướng khoahọc hơn. Tómlại, cáigì
phảnkhoahọc sẽ cókhảnăng gâyra phảntiếnbộ!
Hiệntrạng của tiếngViệt ngàynay là kếtquả pháttriển khôngngừng
của tiếngViệt, trảiqua biếtbao thờiđại, biếtbao đổithay thăngtrầm
mớicóđược một vịtrí ngàynay. Như ai cũng biết, mấy trăm năm
trướcđây, ôngcha chúngta đã mượn chữHán để tạo chữNôm
để biểuthị tiếngnói của dântộc mình. Trướcđó, ngườiViệt
chúngta hoàntoàn dùng chữHán để truyềnthông tưtưởng và
giaodịch hànhchánh, mặcdù tiếngViệt và chữHán là hai
thựcthể khácbiệt nhau. Ðixa vào lịchsử, có người cholà
tiếngHán và tiếngViệt cóthể cùng gốc (thuộc ngữhệ Hán-Tạng
thayvì thuộc ngữchi Mon-Khmer, ngữhệ Namá) và họ cholà tiếngnói
có thayđổi nhưng chữviết khôngcần thayđổi, thídụ như trườnghợp
tiếngAnh hoặc phươngngữ Quảngđông hay phươngngữ Phúckiến
của Trunghoa, nói mộtđàng viết mộtnẻo, họ vẫn tồntại và
tiếnbộ vậy. Thêmvàođó, chữViệt ngàynay khôngcòn sửdụng
chữ Hán màlà mẫutự Latin, thì yêucầu cảitổ cáchviết
chữViệt không cấpbách hoặc không cầnthiết nữa.
Trên thựctế, Trungquốc rất muốn cảitổ chữviết của nước
họ bằngcách sửdụng mẫutự Latin lắm nhưng vì mộtsố những
điềukiện kháchquan không chophép họ thựchiện được. Thídụ
tiếng Phổthông tiêuchuẩn của Trungquốc ngàynay có đặcđiểm
là tính đồngâm rất cao chonên nếu tiếng nầy được viết hoàntoàn
bằng tiếng Latin thì sự sailạc ýnghiã của những âmtiết đồngâm
còn tệhại hơnlà không cảicách. (Thựcsự như đã nói, tínhcách
của tiếngHán giốngnhư tiếngViệt, tiếngViệt đã Latinhoá được
thì tiếngHán Latinhoá được. Cólẽ trong tâmthức người
Trunghoa, qua 5000 năm pháttriển, gắnbó với cùng một thứ
chữviết từxưađếnnay, nó đã trởthành linhhồn của dântộc
họ. Khi Mao Trạchđông còn sống ông có ýđịnh thựchiện ýđồ
nầy, nhưng vì mê thơ Ðường, ông đâmra ùlì. Ông là người
duynhất trong lịchsử Trunghoa cóthể làmđược chuyện nầy. Nhưng
cơhội nầy đã vuộtqua khó cóthể còn có cơhội thứhai!) Họ
đã cho tiêuchuẩnhoá pinyin, là hệthống phiênâm Latin của
tiếngPhổthông của Trungquốc hiệnđại, trongđó tấtcả những
từ song hoặc đaâmtiết đều được viết dínhliển vớinhau.
TiếngNhật cũng cùngchung cảnhngộ với tiếngPhổthông của
Trungquốc và mang nhiều âmtiết đồngâm nhiềuhơn nữa. Trong ướcmuốn
cảicách chữviết, nước Nhậtbản cũng lâmvào trìnhtrạng tươngtự.
Thídụ họ phiên "to" và "to" cóthể là
mộttrongnhững tiếngHánviệt tươngđương: đông, đôn, độc, độn,
đồn, đốc, đống, động, đồng... NgườiNhật đành tạo
hệthống viết riêng dùng songsong với Hántự để phiênâm
tiếng ngoạiquốc, nhờđó dân Nhật cóthể tiếpthu được
những kháiniệm khoahọc kỹthuật mới của phươngTây. Nói nhưvậy
không cónghĩa là chữviết của hai nước nầy chưahề được
cảicách. Họ đã cảicách: chữHán dùng trong hai ngônngữ của
hai xứ này đã được đơngiảnhoá rấtnhiều. Tómlại, hai nước
Hoa và Nhật nầy đãtừng cảicách chữviết của họ nhưng chỉ
mộtphần, chonên khôngđược toàndiện và triệtđể.
Và một câuhỏi lýthú cũng đángđược nêura ở đây: nếu hai nước
lớn Áchâu nầy cảicách thànhcông sang cáchviết bằng mẫutự
Latin, sựpháttriển kinhtế và khoahọc kỹthuật của hai nước
nầy cóphải là đã tiếnxa hơn hiệnnay không? Hỏi tức là
trảlời. Nếu hai nước Hoa và Nhật cảicách thànhcông
chữviết bằng mẫutự Latin của họ, thì cólẽ họ đã tiếnxa
hơnnữa sovới hiệntại trong các lãnhvực khoahọc kỹthuật và
kinhtế. Vìsao? Vì chữviết của họ nếu sớm được cảicách
sang mẫutự Latin thì chươngtrình giáodục cho hơn 1 tỷ dân
Trungquốc sẽ được phổcập hơn, tiếntrình điệntoánhoá hay
vitínhhoá trong lãnhvực tinhọc (informatics) của họ đã đi mộtbướclớn
và dàihơn, và nếu lãnhvực tinhọc có tiếnbộ thì bướctiến
kinhtế của họ còn đi xahơn và nhanhhơn nữa. Lốiviết dựa trên
Hántự ngàynay của hai nước nầy đã gây trởngại khôngít
trong tiếntrình hiệnđạihoá côngnghiệp của họ, nhưng họ khôngthể
làm hơn được. Ngàynay họ khôngthể quaylại từ khởđiểm banđầu
của cuộc cảicách chữviết nữa bởivì chữviết hiệnđại
của họ đãlà mộttrongnhững tiếntrình điệntoánhoá trong côngnghệ
thôngtinhọc.
Tớiđây sẽ có người nóirằng Ðàiloan cũng hoàntoàn dùng
chữHán nhưng họ vẫn đạtđược tiếnbộ đángkể trong lãnhvực
truyềnthông và kỹthuật điệntoán? Vâng, nhưng vẫncòn chậmhơn
sovới Nhật. Và những tiếnbộ họ đạtđược là trên cơsở
xửlý vitính bằng tiếngAnh chứ khôngphải là tiếngHán!
Rồi có người sẽ nói: cảicách chữviết để tiếnbộ nhưng còn
trườnghợp BắcHàn, nước nầy đã cảicách triệtđể
loạibỏ hết chữHán trong chữviết của họ, nhưngï sao họ
vẫncòn sống trong một xứsở nghèonàn lạchậu nhất thếgiới,
trongkhiđó NamHàn lại vữngmạnh, và chữviết của xứ nầy
vẫncòn giữ những yếutố Hán trongđó mà khônghề cảitổ?
Ðólà vì BắcHàn phủnhận thựctế kháchquan là sựtồntại
của yếutố Hánngữ trong chữviết của họ. Yếutố từvựng Hán
là một bộphận của tiếng Ðạihàn, là bảnsắc ngônngữ của
họ, và NamHàn thừanhận yếutố kháchquan nầy.
Khôngnhững chỉ Ðàiloan, Nam Hàn, Nhậtbản hay Trungquốc đạtđược
những tiếnbộ kỹthuật về ngành côngnghệ vitính (Trungquốc ngàynay
là một nước có khảnăng phóng vệtinh thươngmại lên khônggian)
dựatrên xửlý dữkiện bằng tiếngAnh, màcòn những nước phươngTây
nhưlà nước Ðức, nước Pháp hay nước nào đinữa cũng
sửdụng tiếngAnh làm ngônngữ côngcụ kỹthuật để xửlý
dữkiện, thì nước sanhsauđẻmuộn như Việtnam trong lãnhvực
truyềnthông cầngì đến sựcảitổ chữviết của mình để
cầumong tiếnbộ nhanhhơn, vì đằngnào Việtnam cũng phải dùng
tiếngAnh côngcụ để xửlý thôngtin vitính? TiếngAnh là vạnnăng!
TiếngAnh là ngônngữ kỹthuật! TiếngAnh là tiếngnói của
thếgiới! Cứ xửdụng tiếngAnh làm côngcụ ngônngữ kỹthuật
là đủ, cảitổ tiếngViệt chi cho phiềntoái! Ðó là nhờ
tiếngAnh mởrộng cánhcửa thunhận tấtcả mọi yếutố -- nhờđó
nó pháttriển mạnhmẽ chăng?
Ðúngvậy, nhưng khôngphải xứ nào dùng tiếngAnh cũng đạtđược
những tiếnbộ khoahọc đángkể, thídụ Philuậttân hoặc
Jamaica. Nhưng xứta có nói tiếngAnh chăng? Bạn nghĩ sao về nước
Nga và tiếngNga? Nước Pháp và tiếngPháp? Ðếquốc Lamã và
tiếngLatin?
Có một điều thúvị là vôtình hay hữuý mà trên thựctế
những nước giàumạnh tiếnbộ đều đã trảiqua tiếntrình
cảicách chữviết của nước họ: ngoài Nhậtbản và Trungquốc,
còncó Ðứcquốc, Hànquốc, Mãlaiá, Tháilan là những nước điểnhình.
Và đặcđiểm chung của cách đổimới lốiviết của họ là
sự thừanhận sựhiệnhữu của những nhómtừ đaâmtiết. Phiá
Việtnam cũng sẽ lêntiếng: ô, chuyện nầy nhànước đã làm
từlâu, thídụ: ốc-xít-hoá, cạc-bôn-nat, can-xum, ni-trơ-at,...
Ðúng, chínhphủ Việtnam đã thựchiện một phần nhỏ, nhưng đólà
phần vôbổ, cóhại nhiều hơn là cólợi, lýdo tạisao ởđây
xin miễnbàn. Khuynhhướng thôngdụng ngàynay trongnước vẫnlà
giữnguyên những từ nướcngoài khi viết chữViệt. Thựcsự
một người cóhọc ở Việtnam dù không biết tiếngAnh nhưng
vẫn cóthể phátâm đến mộtmức cóthể chấpnhận được
những từ tiếngAnh được dùng trong chữViệt (dĩnhiên là
những từ quá thôngdụng đã Nômhoá như xàphòng, kem, càrem, càphê,
free, sale, ápphe, xinê... thìchẳng nên đổi).
Ai học qua tiếngÐức đều biết là lốiviết nhưlà
Informationssystemverarbeitung (information system processing) của chữÐức
là "lòngthòng" nhất trong các thứ tiếngẤnÂu, vì
bởilẽ kháiniệm nào bấtkể khi ghéplại dù chữviết có dài
đến dườngnào họ vẫn vuivẻ chấpnhận và sửdụng trong cáchviết
của họ.
Ngaycả chữ Ðạihàn, NamHàn tuy vẫncòn sửdụng chữviết hìnhkhối
(phiênâm và chữHán) là disản do kếtquả của ảnhhưởng vănhoá
Trunghoa đểlại, họ vẫnphải viết thành cụmtừ ("kháiniệm")
vớinhau: hyundai = hiệnđại, dongnama=đôngnamá, fanghuo=phònghoả,
phónghoả, Kori= Caoly... nếu X đạidiện cho một chữkhối
bấtkỳ, thì bạn sẽ thấy những từ trên hiệnra dưới dạng
XX XXX XX XX. Lốiviết thành cụmtừ nhưvậy cólợi gì về mặt
thôngtin? Câu trảlời là nó khoahọc hơn (phảnánh đúng
thựctế của tiếngnói) và nhanhhơn (xửlý, tiếpthu, inấn,
tiếtkiệm).
Cảitổ chữviết là điềukiện cần chứ khôngphải là điềukiện
đủ để đạtđược tiếnbộ trong lãnhvực kỹthuật. Khôngcần
phải biệngiải ai cũng đồngý là tiếnbộ kỹthuật là tiềnđề
cho sựpháttriển kinhtế. Cáchviết tiếngViệt của chúngta ngàynay
ngàycàng xa thựctế nếu sovới bốn thậpniên về trước, thờiđó
tấtcả những từkép (songâmtiết) đều được nốilại
vớinhau bằng một gạchnối: quốc-gia, bâng-khuâng, lạnh-lẽo...
Càng về sau, lối viết lườibiếng trởnên chiếm ưuthế vì
tiếtkiệm được một độngtác nốigạch khi viết. Cólẽ trong
tiềmthức dântộc Việtnam, lốiviết hìnhkhối của chữ Hán thành
từng chữ một với từng kháiniệm một đã ảnhhưởng
mạnhmẻ đến thóiquen nầy của ngườiViệt ta chăng? Những gì
ta đọcthấy trên sáchbáo, liênmạng ngàynay là lối viết rờira
thành từng âmtiết đơnlẻ -- phảnánh đúng mứcđộ "bờirời"
hay "rờirạc" của tiếnđộ pháttriển của Việtnam
thuộc nhiều lãnhvực. Dĩnhiên là cảicách chữviết khôngthôi
khôngphải là điềukiện đủ để pháttriển những lãnhvực khác.
Dođó cảitổ cáchviết chữViệt điềukiện cần để đạtđược
tiếnbộ kỹthuật. Cảitổ lốiviết tiếngViệt ngàynay bằngcách
viết dínhliền lại vớinhau những từkép (songtiết) và từđaâm
(đaâmtiết) sẽ mangđến những điểmlợi nêutrên vì nó sẽ rútngắn
thờigian xửlý thôngtin và sẽ xửlý mộtcách chínhxác hơn.
Tiếng Ðức với từ "Informationssystemverarbeitung" chỉ cho
ngườita mộtphần nhỏ của một giây để tiếpthu kháiniệm
nầy. Vì khôngai phải đọc từng vần của từ nầy để
nhậndiện ra kháiniệm mà chữ nầy chuyênchở. Nhưng nếu với cáchviết
rời thành "xử lý bằng hệ thống truyền thông" thì cái
đầu của người Việtnam phải tiếpthu 7 dạngchữ khácnhau, qua
quátrình phântích mới nhậnra là có bốn kháiniệm thôngqua 4
từ, rồi sauđó mới kếthợp thành một cụmtừ-kháiniệm chung.
Nếuphải dịch từngữ nầy theo lối Ðức thành "xửlýbằnghệthốngtruyềnthông"
thì hơi quáđáng và chướngmắt, nhưng nếu được viếtthành
"xửlý bằng hệthống truyềnthông" thì kếtquả xửlý
và tiếpthu dữkiện nầy hiệuquả sẽ nhanhhơn sovới cáchviết
rờirạc, và nhưđãnói, ngườiđọc sẽ đỡ mấtthờigiờ đọc
từng chữ, sauđó mới tổnghợp lại để có kháiniệm toànthể
về cụmtừ-kháiniệm kỹthuật nầy.
Với hằnghàsasố dữliệu thôngtin ngàynay, nhìn dạngchữ
nhậnra kháiniệm nhanhhơn và hiệuquả hơnlà qua từng chữ-âmtiết.
Khi thấy dạng "international" ta không cầnphải đánhvần
thành in-ter-na-tion-al mới "thấmnhuần" kháiniệm nầy, ta
chỉ mới thấy dạngchữ của từ nầy là hiểu ngay. Tươngtự
với những chữ đồnggốc "internationalization",
"internationalism", "international imperialism", "internationale"...
bộóc ta xửlý chúng với tốcđộ ngangnhau, và nhưthế nhanhhơnnhiều
khi ta mang cáchbiệngiải nầy sang những từngữ Việt tươngđương
như " quốctế", quốctếhoá", "chủnghĩaquốctế",
"chủnghĩađếquốc quốctế" và "thếgiớiđạiđồng"...
Ðầuóc conngười đã xửlý nhanh thì máy vitính xửlý càngnhanh
và chínhxác hơn. Thídụ "chủnghiãquốctế" sẽ
tiếtkiệm cho bộnhớ của máy vitính 3 bytes cho ba khoảngcách
trắng (spaces), khi kiểmlỗi chínhtả "speller" sẽ làmviệc
nhanhhơn và khôngcòn gặp trườnghợp "chủ nghĩa" nếu
được viếtthành "chu nghiã", "chủ nghĩa", chú
nghĩa" đềuđược máy vitính dễdàng cho thôngqua! Nóivề
tiếtkiệm giấy in thì chúngta còn tiếtkiệm tiềnbạc nhiềuhơn
là tiếtkiệm khoảngtrống trong bộnhớ của máy vitính, va sáchvở
inra bớt tốn giấy thì dĩnhiên giáthành trởnên rẻ hơn!
LÀMSAO ÐỂ CẢITỔ CHỮVIẾT
Có người đã từng hôhào loạibỏ hết yếutố Hán trong
tiếngViệt, cắtđứt sợi dâydài của lịchsử quanhệ với ngườiHán,
và nếu chúngta làm nhưvậy thửhỏi chúngta cònlại gì? Một
lỗhỗng khổnglồ trong Việtngữ và trong vănhoá Việtnam. Trongnước
trướcđây một vài nhà lãnhđạo cũng có hôhào mộtsố phongtrào
"giữgìn sự trongsáng trong tiếngViệt" nhằm loạibỏ
mộtsố yếutố Hán trong tiếngViệt, nhưlà; dùng máybay thayvì
phicơ, dođó chỉ xài máybay lênthẳng, tênlửa thaycho hoảtiển,
sânbay thaycho phitrường... Nhưng những người hôhào chắc khônghề
biếtrằng: máybay, tênlửa, hay sânbay đều hoàntoàn có gốcHán.
Chúngta cảitổ chữviết nhưng sẽ không sa vào trìnhtrạng quáđà
nầy.
Trong quátrình pháttriển của Quốcngữ, từ buổi bansơ đến
hiệntrạng của chữViệt ngàynay, đã có biết baonhiêu đổithay
và sửađổi về mặt hìnhthức kýâm của tiếngnói nướcnhà.
Trong hơn nửa thếkỷ trởlạiđây, chínhtả Việtngữ đã khá
ổnđịnh. Chính nhờ vào tính ổncố nầy, khi sosánh cáchviết và
thựctế cách phátâm tiếng Việt, khôngkểđến cáchviết để
diễndạt theo ngônngữ hiệnđại đốilập với kiểuxưa, cách kýâm
tiếngViệt bằng mẫutự Latin cho ta thấy một hìnhảnh tươngđối
về những thayđổi về mặt ngữâm. Thí dụ, ta viết "thu"
nhưng lại phátâm là /t'ou/, không phải là /t'u/, "không"
phátâm là /k'ongw/ chứ khôngphải là /k'ong/, "hộc" phátâm
là /hokw/ chứ khôngphải là /hok/, "ti" phátâm là /tei/
chứ khôngphải là /ti/, nhưng "tin" phátâm là /tin/ chứ
khôngphải là /tein/v.v... Nếu kể thêm vào giọngBắc, Trung, Nam
của từng địaphương, cáchviết ngàynay dĩnhiên là không hoàntoàn
giữ đúng như thuở banđầu, vì ngônngữ luônluôn ở trong một
tiếntrình vậnđộng và biếnđổi khôngngừng và nếu quảthật
những người sángchế ra chữQuốcngữ kýâm đúngđắn
tiếngViệt vào thờiđiểm nàođó trong lịchsử. Nhưng những
thayđổi nhỏ nầy về mặt ngữâm không làm xáotrộn hệthống
chínhtả Việtngữ vì nó không giốngnhư tiếngAnh, là ngôngữ mà
sựphátâm đã thayđổi đến mức đôikhi nói mộtđàng viết
mộtnẻo. Dođó, ởđây chúngta sẽ không tiếnhành cảitổ cách
kýâm saocho chuẩnxác mộttrămphầntrăm, mà chúngta chỉ xétđến
cáchcảitổ phảnảnh đúng tínhcách songâmtiết và đaâmtiết
của tiếngViệt.
Vấnđề ởđây đặtra là bấtcứ sửađổi hay cảitổ
chữviết nếu không xétđến tínhcách kháchquan của nó sẽ không
baogiờ thựchiện được. Hiệnthực kháchquan của ngônngữ nóichung
là tiếngnói của nước nào cũng vaymượn từngữ của những nước
lớn hơn mình. Thựctế kháchquan của tiếngViệt ngàynay là nó
mang tíchcách songâmtiết, với những đặcđiểm ngônngữ gần
giốngnhư tiếngHán, là disản của sựthẩmnhập một sốlượng
từHán khổnglồ, mà tiếngHán là tiếng mà tấtcả đạihọc
lớn trên thếgiới đều có làm nghiêncứu và nhìnnhận rằng
tiếngHán hiệnđại là một ngônngữ đaâmtiết (songâmtiết).
Cách diễnđạt tiếngViệt rõràng và logic nhất vẫn là côngnhận
tính đaâmtiết của tiếngViệt. Có người cholà làm nhưvậy
thể thơ lụcbát hay songthấtlụcbát sẽ có một lối viết không
có dântộctính (bạn còn nhớ truyện ông Mao Trạchđông mê thơ
Ðường không?). Thựcsự vấnđề này cũng dễ giảiquyết
bởilẽ chúngta sẽ có hai chọnlựa khi làmthơ: hoặc là cảiđổi
hoàntoàn theo lốiviết mới, hoặclà cứ giữy nhưcũ, vì đây
thuộc lãnhvực nghệthuật và lãnhvực nầy cóthểkhông bị ràngbuộc
bởi hìnhthức. Cảitổ cáchviết chủyếu là chútrọng đếntính
khoahọc của nó và là để ápdụng vào trong lãnhvực khoahọc,
thídụ nhưlà tạo thuậtngữ khoahọc mới trong các lãnhvực như
tinhọc, ykhoa, côngnghệ, thươngmại, thưviệnhọc v.v...
Khi cấutạo hay sángchế từ mới, mộtkhi chúngta đã chấpnhận
sựthưc kháchquan thuộctính đaâmtiết của tiếngViệt, những
thuậtngữ khoahọc cần được cấutạo để đápứng nhucầu pháttriển
khoahọc hoặc để dịch những kháiniệm khoahọc mới từ
tiếngAnh thì ta cóthể mang nguyêntắc đaâmtiết ra ápdụng khi
dịch. Ở trongnước những kháiniệm như lênmạng=online,
cổngnối=gateway, nốimạng=connected, trangnhà=homepage... là những
từ được tạora trên nguyêntắc phântích thànhtố của từ,
xong ghéplại thành từghép để chora từkép hay từđaâmtiết
mới.
Thêmvàođó, mộttrongnhững ưuđiểm của tiếngViệt là cóthể
giatăng sốlượng từvựng mới mộtcách gầnnhư vôhạn. Tuy
sinhsauđẻmuộn trong lãnhvực khoahọc, Việtnam cóthể sửdụng
khotừ Hánviệt và Hánnôm của mình để dịch những thuậtngữ
khoahọc mà Nhậtbản là nước đã đitrước và tiếnbộ về lãnhvực
nầy với những thuậtngữ họ tạora từ tiếngHán. Chuyện nầy
Trungquốc đã thựchiện từlâu khi họ cho dunhập những từngữ
như là chínhtrị, cộnghoà, dânchủ, tíchcực, tiêucực... vào
trong kho từvựng của họ đềulà những kháiniệm mới hồi đầu
thếkỷ 20 của Tâyphương mà Nhật đã tạora bằng yếutố Hán.
Những từ này đã làm một vòng Trunghoa trước khi sang Việtnam!
Tươngtự, rất nhiều danhtừ kỹthuật ngàynay do Nhật tạora
vẫncòn được Trungquốc vaymượn. Tómlại, nhiều thuậtngữ đã
cósẵn, ta cóthể vaymượn lại và tiếpthu mộtcách dễdàng.
Cũng căncứ và tính đaâmtiết của từvựng, tiếngViệt đã
nẩysinhra những từ mới như: máyvitính (micro=vi, compute=tinh, -er=máy),
tinhọc (information=(thông)tin, science=(khoa)học)), liênmạng (inter=liên,
net=mạng), nângcấp (up=nâng, grade=cấp)... Trongkhiđó, tuỳtheo
mứcđộ thôngdụng mà ta cóthể giữy như chữgốc của
tiếngAnh: chip, bit, bai 'byte', mê 'mega', bo 'board', font, CD, email,
website...
Trong lãnhvực nầy trongnước ngườita đã thựchiện và tiêuchuẩnhoá
khánhiều thuậtngữ mới và theo nguyêntắc ghéptừ. Nhưvậy,
mộtlầnnữa, đâylà bằngchứng hùnghồn về tính đaâmtiết
của tiếngViệt hiệnđại. Bạn cóthể thích từ máyđiệntoán
hay máyđiệnnão hơn là cáchgọi máyvitính, nhưng nếu đasố đã
dùng, bạn khôngthể đứùng ngoàilề mộtmình chốngchọi với dòngnước
lịchsử.
Và nhưvậy, khôngcần phải đợi kếtquả nghiêncứu nào khác để
xácđịnh tínhcách đaâmtiết (songâmtiết) của tiếngViệt vì
chỉ nội sốlượng hiệnhữu cũa những từ songâmtiết Hánviệt
và tiếngHánnôm (từNôm có gốcHán), chúngta cóthể tiếnhành
cảitổ ngaytừbâygiờ.
Nhưvậy chúngta sẽ cảitổ gì và bằng cáchnào? Yêntâm, đâylà
một cảitổ rất đơngiản.
Ngônngữ viết chỉlà một phươngtiện truyềnthông bằng thóiquen
và quyước. Nếu chúngta quyước và ai cũng chấpnhận thì
mọiviệc cóthể thựchiện được. Chúngtôi không hôhào
cảitổ triệtđể như trườnghợp -s cho sĩ, -z cho gia, s- cho sự,
mà chỉ muốn tấtcả mọingười sửađổi một tíxíu thóiquen:
lợidụng sựnhậndạng những chữ thường đichung vớinhau --
viết chúng dínhliền lại vớinhau (quyước nầy cũng do thóiquen
mà ra), vì đólà những từ chúngta nói liềnnhau không
ngắtquảng. Những từkép songâmtiết và đaâmtiết cùngvới
những chữ đichung vớinhau để diễntả một kháiniệm, và
những thànhngữ, cụmtừ thườngdùng. Thídụ: mặcdù, vớinhau,
nhiềuhơn, đẹpnhất, nhấtlà, đólà, dođó, chonên, chotớinay,
kểtừbâygiờ, ngaylậptức, từtrướcđếnnay, xãhộichủnghĩa,
chủnghĩatưbản, phầnmềm, hằnghàsasố, kểkhôngxiết....
Khởiđầu cóthể mỗingười cũng cùng một cụmtừ nhưng lại
viết khác, lâudần vềsau thờigian sẽ đảilọc, cáigì thường
được dùng nhiềunhất sẽ được giữlại. Ðể có kimchỉnam
đưadườngchỉlối bướcbanđầu, tạmthời ta cóthể dùng một
ngônngữ nướcngoài làmchuẩn: tiếngAnh hoặc tiếngHán, hay
bấtkỳ ngônngữ nào vì đasố ngônngữ ngoạiquốc không có
lốiviết rờirạc như lốiviết tiếng Việt của chúngta ngàynay.
Lấy tiếngAnh làm thídụ: although=mặcdù, scholarship=họcbổng,
dictionary=từđiển, handbook=sổtay, however=tuynhiên, any=bấtcứ,
individualism=chủnghĩacánhân.... Tómlại, nếu một nhóm chữ thường
đichung vớinhau và là cùngchung một kháiniệm hay một đoảnngữ
quen dùng: cứ viết dínhliền vớinhau!
Có người sẽ hỏi: Ðồngý, đólà cho tươnglai , nhưng thế còn
số sáchvở và thưtịch cũ đã in của nướcta thìsao? Mộtkhimà
ai cũng quen đọc và viết theo lốimới nầy (ChữViệt năm 2020,
haylà Việtngữ2020), thì độngcơ kinhtế sẽ làm mọisự thayđổi
hết. Nhàin sẽ tựđộng insách theo nhucầu ngườiđọc, nếu vào
năm 2020 ngườita còn insách!
Cáilợi đã được phântích, tuy chưa được sâusắc, đầyđủ
và thuyếtphục lắm, nhưng nếu các bạn nhậnthấy điều đó đúng
và có nhiệttình, bắttay vàolàm ngaybâygiờ, aiai cũng làm thì còn
logì không thựchiện nổi cuộc cảitổ nhỏbé nầy, nhấtlà bước
thửnghiệm trên liênmạng chẳng tốnkém gì cả. Bàiviết này là
một thídụ điểnhình vậy!
Ngườiviết bài nầy xin hoannghênh đónnhận ýkiến của tấtcả
các bạn và của quývị caominh. Một người thì chỉ làmnổi cơn
bãotố trong táchnước.
dchph
Updated 11-06-2011