Sửađổi
Cáchviết ChữViệt
Haylà
ChữViệt Năm 2020
Click
here for "Suadoi Cachviet TiengViet"
(Khongzau)
ABSTRACT
(Click
here to skip this English abstract
)
Why Vietnamese2020? Vietnamese2020 is
a new Vietnamese writing system in the years to come
and that should be the way Vietnamese will be written
in the year 2020. This is a proposal and analysis of
the needs for a reform of the current Vietnamese
writing system, which will have a slightly different
appearance from what it is known today.
This proposed writing reform, above
all, ideally would expose monolingual native learners
to symbolic patterns that would have positive effects
on abstract and collective thinking by means of a
polysyllabic way of writing, i.e., writing all
syllables of a word in a combining formation. This
cognitive process can be achieved via, one among other
things, its pre-defined text strings of whole words
appearing with peculiar shapes in their entirety,
which would resemble much more of a graphical
representation of concepts rather than syllabic
spellings. In a polysyllabic word formation its
meanings are tightly bound to its symbolistic shape of
combined syllables, which is to achieve the same
effects as those of ideographs. In English or German
writing systems polysyllabic words show that type of
symbolistic characteristic and, in a way, they are
usually perceived abstractly through shapes of
respective long text strings.
On the contrary, with the Vietnamese
monosyllabic writing system, readers have to,
mentally, go through the process of, firstly,
recognizing each one of those separately written
syllables, making sense out of it individually, and
only then, lastly, being able to comprehend meanings
of the final mentally assembled words. Polysyllabic
scripts, in the meanwhile, enable readers' brain to
absorb larger batches of continuous text strings,
which will render a similar visual effect as those of
ideograms. We will recognize the conceptions of words
right away simply just by catching the sight of
strings of polysyllabically combined words. Those who
have already possessed advanced knowledge of a foreign
language, especially German, might have already
experienced such highly visual effects.
Being an inferior form, a monosyllabic
writing system can only represent one syllable at a
time as in the case of the present Vietnamese
orthography. It is not hard to see that if all
databases had been built the way as a monosyllabic "Vietnamese
dictionary" is structured in a monolingual native
Vietnamese speaker's brain then the world might have
come to know different kinds of databases far less
ideal than what the computing world has achieved to
date!
As a matter of fact, Vietnamese is no
longer a monosyllabic language, but, in writing,
syllables which make up a polysyllabic word are still
written separately, just like the way the Vietnamese
had handled block-written Chinese characters before
the end of 19th century. For example, in today's
Vietnamese orthography words like "học
bổng" (scholarship), ''bâng khuâng"
(melancholy), "bâng quơ" (vague), "ma
tuý" (narcotic), and thousands of others,
obviously dissyllabic in nature, are still written in
separate syllables as such. Writing that way is
exactly the same as breaking those polysyllabic
English words into separate syllables as "scho
lar ship", "me lan cho ly", "va
gue", or "nar co tic", etc.
It does not matter in what language,
monosyllabic writing is illogical and unscienific. The
cited dissyllabic Vietnamese words above should be
accurately written in combining formation as
"họcbổng", ''bângkhuâng", "bângquơ",
"matuý", respectively. That polysyllabic
way of writing will precisely representing the true
dissyllabic characteristics of today's Vietnamese.
Again, if English had been written the way Vietnamese
is, it would have never become the technical language
tool in the modern computing technology with such
popularity worldwide as it is enjoying today.
A society progresses if its language
progresses. Stagnance of Vietnamese monosyllabic way
of writing, as a result, has hampered Vietnam's
advancements in many ways including those of
developments in computing fields. It is painful to
reform, but we have to do it.
This new proposed writing system,
ideally in a sense, will lay out a foundation for
building blocks of polysyllabic principles. Its final
results will lead to the development of new guidelines
to build a standardized polysyllabic writing system.
In the long run, this new Vietnamese polysyllabic
orthorgraphy purposedly will foster children's ability
to learn things abstractly and collectively. At the
same time, this will also create a favorable condition
for data processing fields to progress properly,
which, in return, will stimulate economic development.
Please join us in this writing reform
effort NOW by starting to write Vietnamese in the
combining formation of syllables for each
word-concept. For now emails and internet postings are
a few good places to begin with. In practice, while
awaiting official orthography guidelines, hopefully,
from a governmental body such as a national language
academy, the easiest way for those who already know a
foreign language, when in doubt, is to think of an
equivalent word in English or in another common
foreign language since all of them is totally written
in polysyllabic formation as having been known to the
world as of the present day. For example, for
"although" we have "mặcdù", for
"blackboard" > "bảngđen",
"faraway" > "xaxôi", and so
on. With regard to building a successful polysyllabic
writing system, the German writing system is highly
recommended as a good model to serve as a referent
framework or building blocks to devise a new
Vietnamese script.
Let's be the first pioneers of a new
Vietnamese language reform to set new polysyllabic
standards in the years to come! Do not think that you
are going to waste time on something unrealistic. It
is a noble cause that will benefit our nation in terms
of stimulating our children's abilities to think
abstractly and collectively, which is the foremost
reason behind this proposed Vietnamese writing reform.
If we all go for it or simply just say "yes"
to the peoposed reform, our voice will be heard and
our dream will become a reality. All you need is to
act, quickly.
Click
here ro read the English version of this writing
x
X x
Ngônngữ là một
thuộctính bềnvững và biếnđổi chậmnhất
của một dântộc. Trong quátrình pháttriển
lịchsử, tínhcách của ngônngữ có thayđổi
với một mứcđộ ítnhiều khácnhau, nhấtlà
về hìnhthức, ở cái vỏ biểuhiện bềngoài
của tiếngnói, đólà chữviết của một ngônngữ.
Tuỳtheo nhucầu lịchsử, một dântộc cóthể
có nhucầu thayđổi cách thểhiện tiếngnói
của mình qua chữviết để thíchhợp với
nhucầu của thờiđại. Nhiều nước
tiếnbộ trên thếgiới ngàynay trong quátrình
pháttriển đã phải thôngqua giaiđoạn cảicách
chữviết vì đólà một quátrình tấtyếu.
ChữViệt chúngta đang sửdụng không
phảnảnh đúng mộtcách khoahọc của
thựctrạng tiếngViệt ngàynay. Cáchviết
chữViệt hiệnđại cầnphải được
cảitổ hay sửađổi lại không chỉ để phùhợp
tiếngnói màcòn tạo điềukiện trựctiếp
hoặc giántiếp gópphần pháttriển Việtnam
trong lãnhvực kỹthuật của thờiđại hômnay
vì kếtquả thựctiển là nó sẽ manglại
những lợiích kinhtế thiếtthực.
Thayđổi một thóiquen, nhấtlà thuộc lãnhvực
ngônngữ, rất khó nhưng nếu cầnphải cảicách,
khôngphải là khôngthể thựchiện được. Ðứng
trên một quanđiểm nàođó, cảitổ cáchviết
tiếngViệt khôngđược xem nhưlà một yêucầu
cấpbách, nhưng nếu quảthực sự cảitổ
manglại lợiích cho nướcnhà, chúngta phải hànhđộng.
Ðể thựchiện cảitổ cáchviết tiếngViệt
hiệnnay, chúngta cần xemxét vấnđề dưới
nhiều khíacạnh để trảlời những câuhỏi
của các vấnđề liênhệ: hiệntrạng của cáchviết
tiếngViệt, tạisao lạiphải cảicách, và làmsao
để thựchiện cảicách?
HIỆNTRẠNG CỦA CÁCHVIẾT TIẾNGVIỆT
Trong lời màođầu, chúngta có nhắctới tínhcách
của một ngônngữ, cụthể hơn đólà đặctính
của tiếng Việt. Vậy đặctính cơbản của
tiếng Việt là gì và hìnhthức gì của nó
đã thayđổi qua các thờiđại? Trảlời câuhỏi
nầy dưới lăngkính ngônngữ lịchsử sẽ làm
ta nhậnthấy rõnét hơn hiệntrạng của
tiếng Việt.
TiếngViệt trong quátrình pháttriển đã
thẩmnhập và tiêuhoá (Việthoá và Hánviệthoá)
hàngngàn từngữ từ tiếngHáncổ và tiếngHán
của nhiều thờiđại, cóthể đã xảyra trước
thời Tần-Hán 221 năm trước Côngnguyên (thídụ
từ "vuquy", "thángchạp" được
dùng vào đời Tần, ngườiTrunghoa ngàynay không
dùng những chữ này) chotới ngàynay (thídụ
từ "khôngdámđâu", "baxạo",
"tầmbậy", "phaocâu", "dêxồm").
Trong quátrình nầy bướcpháttriển lịchsử
của Việtngữ đã rậpkhuôn theo cáchcấutừ
của tiếngHán, nhấtlà sựhìnhthành những
từkép haylà từ songâmtiết (dissyllabics). Nhưvậy,
ngàynay đặctính hay tínhcách của
tiếngViệt là chứa nhiều từ songâmtiết
(từkép) được viết dưới hìnhthức
mẫutự Latin rờira từng tiếng một. Trong
tiếngViệt đasố từkép có một sốlượng
lớn âmtiết cóthể đứng độclập như
một từ và có ýnghĩa đơnbiệt. Ðiều nầy
chothấy tiếngViệt biếnchuyển từ tínhcách
đơnâmtiết sang đaâmtiết, nhưvậy
tiếngViệt của chúngta ngàynay khôngcòn là
một ngônngữ đơnâmtiết.
Mộtsố nhàngữhọc lại chorằng thựcsự
tiếngViệt từ thời tháicổ đã có hìnhthái
phụâm phứchợp và đaâmtiết như nhiều ngônngữ
khác thuộc dòng Mon-Khmer, và họ cholà
tiếngViệt đã biếnđổi từ tínhcách đaâmtiết
sang đơnâmtiết. Ýkiến của họ cũng đáng
chúý vì bảnthân của tiếngViệt cóthể là
từxưađếnnay khônghẳn thuầntuý là một
tiếngnói đơnlập đơnâmtiết (mono-syllabic
and isolated language), chứngcớ là nhiều từ cơbản
trong tiếngViệt tự nó baogiờ cũng là
những từsongâmtiết nhưlà màngtang, mỏác,
đầugối, khuỷtay, bảvai, cùichỏ, mồhôi,
cùlét v.v...và thậmchí ngườita còn tìmthấy
một ít những từ đaâmtiết (polysyllabics)
trong tiếng "thuần Việt" (ởđây
mang ýnghĩa tươngđối, những từ được
chọn chỉ để làmthídụ): xấcbấcxangbang,
bảlápbảxàm, gióheomay, ngủlibì, dốtđăïccánmai,
cờbayphấtphới, mưalấtphất, balăngnhăng,
lộnxàngầu, mêtítthòlò, bađồngbảyđổi,
lộntùngphèo, tuyệtcúmèo, bachớpbanháng... và
phụâm phứchợp còn hiệndiện trong tiếng
Việt chođến thếkỷ 17: blời, blăng (cóthể
saunầy biếnthành mặttrời, mặttrăng chăng?
Nếu đúng, cáchbiếnđổi nầy giốngnhư trườnghợp
"khlong" thành "khủnglong"
của tiếngHán.)
Với cáchnhìn nào, tínhcách songâmtiết của
tiếngViệt ngàynay rất rõnét. Ðặctính
nầy đốilập với tínhcách đơnâmtiết
của mộtsố lớn từvựng cổ của
tiếngViệt, giốngnhư tiếngHán, vì
rấtnhiều từsongâmtiết trong tiếngViệt
hiệnnay chứa hai yếutố (hai tiếng hay âmtiết)
đều đồngnghĩa: tứcgiận, trướctiên, cũkỹ,
kềcận, gấprút... Ðặcđiểm nầy
thểhiện ra tínhcách của Việtngữ:
từvựng pháttriển từ đơntiết đến songâmtiết
dựatrên sựkiện ôngcha chúngta đã ghép
haitiếng đồngnghĩa lại vớinhau để tránhsự
đồngâm và để minhxác ýnghĩa đơnthuần
của từ đơnâm để khỏi bị lẫnlộn với
từ đồngâmdịnghĩa khác. Trong tiếngHán
hiệnđại, từ songâmtiết có hai âmtiết đồngnghĩa
đasố đềuđược cấutạo theo lối nầy.
Hìnhthức biểuhiện của tiếngViệt khoảng
một thếkỷ trướcđây là nhờvào chữHán,
là ngônngữ có cơchế pháttriển từvựng
giốngnhư của tiếngViệt. Khi ôngcha chúngta
có nhucầu muốn thểhiện những âmthanh mà
tiếngHán không có, họ đã biếnđổi hìnhthức
chữHán sang chữNôm cáchnay nhiều thếkỷ.
Khi chữ Quốcngữ (tiếngViệt viết bằng
mẫutự Latin) được các nhàtruyềngiáo phươngTây
sángchế ra để kýâm tiếngViệt vào
thếkỷ thứ 17, họ cũng đã nhậnthấy tính
songâmtiết của tiếngViệt và họ đã dùng
dấu gạchnối - để nốilại những từ
nầy thành từkép. Và lốiviết gạchnối
nầy còn tồntại đến cuối thậpniên 1960.
Hiệnnay thì đasố ai cũng viết rờira thành
từng chữ một, vừa do thóiquen và vừa do tính
lườibiếng tậpthành.
Và nhưvậy rõràng là cáchviết tiếngViệt
ngàynay không còn phảnánh đúng thựcthể
tiếngnói nữa, vì với một sốlượng vốn
từkép Hánviệt (thídụ: tổquốc, phụnữ,
giađình, cộngđồng....), từ Hánôm haylà
từ Nôm songâmtiết có gốcHán (sinhđẻ,
dạydỗ, lạnhlẽo, nhờvã...), và từ
"thuầnViệt" (mặccả, bângkhuâng,
ngọtngào, mồcôi, hiuquạnh...) khổnglồ
hiệndiện trong tiếngViệt ngàynay, cáchviết
táchrời từng âmtiết là một cáchviết không
phảnảnh đúng mộtcách khoahọc bảnthân
của tiếngnói nướcnhà nữa.
Ai cũng thừanhận tiếngAnh là tiếng đaâmtiết
(thựcsự tiếngnói nào trên thếgiới ngàynay
cũng đều đaâmtiết cả, nếucóchăng tiếng
đơnâm thì đólà ngônngữ cổxưa; ngônngữ
phải pháttriển từ cái giảnđơn sang cái
phứctạp.) Ðem tiếngAnh ra sosánh, ta cũng cóthể
nhậnthấy trong tiếngAnh nếu ngườita
loạitrừra hết những yếutố vaymượn từ
Latin hay Hylạp và chỉ còn giữ lại những
từ gốc Anglo-Saxon, thì tiếngAnh sẽ hiệnra
cái bảnchất gầnnhư đơnâmtiết của nó:
go, keep, run, walk, eat, sleep, morning, (<morn),
evening (<eve) before (be+fore)...
Chúngta cóthể sosánh những từ
"thuầnAnh" những từ
"thuầnViệt" (ýnghĩa tươngđối để
sosánh, chứ bảnthân của những từ sau đều
cóthể có gốcHán) với những từ Việt tươngtự:
ăn, ngủ, đái, ỉa, đi, đứng... Có người
sẽ nói: nhưng tiếngAnh là một ngônngữ
biếnthể, họ còn có dạng eater, keeper,
walker, sleeper... trongkhiđó tiếngViệt là
một ngônngữ đơnlập làmgì có biếnđổi hìnhthái
mà sosánh? Hãy xemxét hìnhthức nầy của
tiếng Việt: artist = nghệsĩ, singer = casĩ,
writer=vănsĩ,... nếu chúngta quyước -sĩ=-s,
thì ta có nghệs, văns, hoạs, nhạcs, quâns,
hay -gia=-z thì ta có tácz, luậtz, sángchếz,
hay sự-=s- thì ta có stình, scố, sviệc,
sthể, hay -thuật=th thì ta có kỷth, nghệth,
math, mỹth, hoặc f-=phi thì ta có flý, fquânsự,
fnhân, fliênkết, fchínhphủ... Vậy -s, -z, s-,
-th, f- cóthể ví nhưlà những ngữõtố
(suffixes) có chứcnăng khôngkhácgì suffixes
của tiếngAnh. Ngônngữ nhưvậy chẳngqua là
những quyước và côngước.
Trong quátrình tiếngAnh pháttriển và
thẩmnhập những yếutố ngoạilai khác,
bảnthân cáchcấuthừ của tiếngAnh cũng theo
cáchcấutừ của ngônngữ ngoạinhập:
therefore, anybody, however, nevertheless, blackboard,
gunship, eyebrow, armchair... Khi viết chữAnh ngườita
khôngbaogiờ cắt đứt âmtiết ra nhưng khi ngườiViệt
viết chữViệt chúngta lại cắtra thành
từng tiếng một, bấtkể từ bị cắtra
bảnthân nó đôikhi không có nghĩa theo nghĩa
ngữvựng như chúngta hiểu ngàynay: bâng/khuâng,
hồi/hộp, mồ/hôi, tai/tiếng, mặc/cả, cù/lét....
Bạn có baogiờ thử tựhỏi: "bâng"
làgì? "khuâng" làgì? Và rồi
"hồi" làgì? "hộp" làgì?,
"mồ" làgì? "hôi" làgì?
"tai" làgì?, " mặc" làgì?
"cả" làgi? "cù" làgì?
"lét" làgì? Chúng chỉ có nghĩa khi
chúng đichung vớinhau, khi ta phátâm ta cũng phátâm
thành cặp, nhưng thếsao chúngta khi viết
những từkép nầy chúngta lại tách chúng ra?
Nếu kể thêm vào từvựng Hánviệt và từNôm
có gốcHán (Hánnôm), sốlượng từ songâmtiết
nhiều không kểxiết, và những từ này
chịuchung sốphận của lưỡibút lườibiếng
của chúngta cắtngang. Rõràng là lốiviết
nầy phảnánh tính thiếu khoahọc và không
tiếnbộ của ngườiViệtnam!
TẠISAO PHẢI SỬAÐỔI CÁCH VIẾT HIỆNNAY
Giốngnhư cái nhãn 4000 năm vănhiến, chúngta
tựmãn đãlâu với disản Quốcngữ và mang tâmlý
ùlì, ngại thayđổi. Ðó là một khuyếtđiểm
của người Việtnam, cộngthêmvới tính ưa
phảnđối, khi có aiđềxướng cáigì mới mà
mình khôngthích là phảnđối ngay dù
chẳngbiết là tạisao lại phảnđối? Dù đã
có khôngít người như các vị Lãng Nhân Phùng
Tất-Ðắc (hiện ở bên Anh), Giáosư Phạm Hoàng-Hộ
(ở Canada), Giáosư Trịnh Nhật (Úc), Giáosư
Dương Ðức-Nhự, cụ Ðào Trọng-Ðủ, và
những vị ủnghộ ýkiến về tính đaâmtiết
của tiếngViệt như là cụ Hồ Hữu-Tường,
Giáosư Nguyễn-Ðình Hoà, Giáosư Bùi Ðức-Tịnh...,
nhậnthấy những saisót trong cáchviết
tiếngViệt ngàynay, nhưng tiếngnói của họ
bị phảnđối khíchbác rồi chìm trong quênlãng.
Ngàynay tiếnbộ kỹ thuật và cuộc cáchmạng
tinhọc về liênmạng toàncầu chophép chúngta
cùngnhau dấyđộng côngcuộc cảitổ cách
viết chữViệt của chúngta ngàynay saocho nó
cólợi, và cái lợi của nó manglại phải nhìnthấy
được trong các lĩnhvực khoahọc kỹthuật,
vá tácđộng của nó đốivới sự pháttriển
kinhtế nướcnhà.
Như đã nói, cách viết chữ Việt ngàynay
chứa một saisót trầmtrọng trong hìnhthức
biểuđạt những kháiniệm mà khi nói chúngta
phátâm điliền vớinhau không ngắtquảng.
Ðã thấy sai thì chúngta phải sửa, chứ đừng
để cho những nhàngữhọc phượngTây thiếu
amhiểu bachớpbanháng thoạtnhìn cáchviết
của chúngta là đã hôhoán lên: tiếngViệt là
tiếng đơnâmtiết (monosyllabic) và đơnlập
(isolated) -- họ cóthể hàmý tiếngViệt chúngta
còn thôsơ, chưa pháttriển, lạchậu, và nghèonàn.
Họ đâucần biết chi đến bốn nghìn năm vănhiến
gìđó của ta. Họ có baogiờ bỏ thờigiờ
nghe ta giảithích những hìnhthức đạiloại
"nghệs", "flý" kểtrên. Nếu
cảitổ cáchviết mộtcách triệtđể, chúngta
cóthể làm vậy (biếnthểhoá thành hìnhthái
những ngữtố 'suffixes'), thậmchí khôngcần
bỏdấu nữa. Nếu cảitổ theokiểunầy thì
đâylà một hìnhthức mà ngườingoạiquốc
học tiếngViệt sẽ rất hoannghênh vì khi
học từvựng tiếngViệt, họ sẽ học cái
toànthể: conđường=road, bầutrời=the sky,
quảđất=the globe... "con" đichung
với "đường", "bầu" đichung
với "trời", và "quả" đichung
với "đất"; nhờđó họ khôngcòn
phải thắcmắc về cách chúngta nói khi thì
"con", khi thì "bầu", khi thì
"quả"... tạisao không dùng hết
"con" hay "cái" cho nó tiện!
Thựcsự khôngphải ngônngữ chúngta sửdụng
có quánhiều loạitự (classifiers) mà bởilẽ
cáchviết rời của những từ có loạitự
nầy làm ngườita rốitrí. TiếngHán cũng có
một sốlượng loạitự rấtlớn ynhư
loạitự của tiếngViệt, nhưng khi người
ngoạiquốc học tiếngPhổthông (Quanthoại)
thôngqua hệthống phiênâm Latin pinyin của
Trungquốc, họ chẳng thắcmắc gì bởilẽ
phầnlớn những từ thường đicặp với
loạitự thường được viết dínhliền nhau
hoặc đichung vớinhau.
Nhưng chúngta khôngphải cảicách chữviết là
để cho người ngoạiquốc học hoặc phêphán.
Dođó chúngta sẽ không sửađổi cáchviết
tiếngViệt mộtcách triệtđể nhưvậy và
những minhhoạ trên chỉ nhằm nhấnmạnh đến
tínhcách của tiếngViệt đã bị chữviết
"phânhoá" và phảnbội. Khi nói ta không
táchrời âmtiết ra, tạisao khi viết chúngta
lại cắtra?
Hiệntrạng của tiếngViệt ngàynay là
kếtquả pháttriển khôngngừng của
tiếngViệt, trảiqua biếtbao thờiđại,
biếtbao đổithay thăngtrầm mớicóđược
một vịtrí ngàynay. Như ai cũng biết, mấy
trăm năm trướcđây, ôngcha chúngta đã mượn
chữHán để tạo chữNôm để biểuthị
tiếngnói của dântộc mình. Trướcđó, ngườiViệt
chúngta hoàntoàn dùng chữHán để truyềnthông
tưtưởng và giaodịch hànhchánh, mặcdù
tiếngViệt và chữHán là hai thựcthể khácbiệt
nhau. Ðixa vào lịchsử, có người cholà
tiếngHán và tiếngViệt cóthể cùng gốc
(thuộc ngữhệ Hán-Tạng thayvì thuộc
ngữchi Mon-Khmer, ngữhệ Namá) và họ cholà
tiếngnói có thayđổi nhưng chữviết khôngcần
thayđổi, thídụ như trườnghợp tiếngAnh
hoặc phươngngữ Quảngđông hay phươngngữ
Phúckiến của Trunghoa, nói mộtđàng viết
mộtnẻo, họ vẫn tồntại và tiếnbộ
vậy. Thêmvàođó, chữViệt ngàynay khôngcòn
sửdụng chữ Hán màlà mẫutự Latin, thì yêucầu
cảitổ cáchviết chữViệt không cấpbách
hoặc không cầnthiết nữa.
Trên thựctế, Trungquốc rất muốn cảitổ
chữviết của nước họ bằngcách sửdụng
mẫutự Latin lắm nhưng vì mộtsố những điềukiện
kháchquan không chophép họ thựchiện được.
Thídụ tiếng Phổthông tiêuchuẩn của
Trungquốc ngàynay có đặcđiểm là tính đồngâm
rất cao chonên nếu tiếng nầy được viết
hoàntoàn bằng tiếng Latin thì sự sailạc ýnghiã
của những âmtiết đồngâm còn tệhại hơnlà
không cảicách. (Thựcsự như đã nói, tínhcách
của tiếngHán giốngnhư tiếngViệt,
tiếngViệt đã Latinhoá được thì tiếngHán
Latinhoá được. Cólẽ trong tâmthức người
Trunghoa, qua 5000 năm pháttriển, gắnbó với cùng
một thứ chữviết từxưađếnnay, nó đã
trởthành linhhồn của dântộc họ. Khi Mao
Trạchđông còn sống ông có ýđịnh
thựchiện ýđồ nầy, nhưng vì mê thơ Ðường,
ông đâmra ùlì. Ông là người duynhất trong
lịchsử Trunghoa cóthể làmđược chuyện
nầy. Nhưng cơhội nầy đã vuộtqua khó cóthể
còn có cơhội thứhai!) Họ đã cho tiêuchuẩnhoá
pinyin, là hệthống phiênâm Latin của
tiếngPhổthông của Trungquốc hiệnđại,
trongđó tấtcả những từ song hoặc đaâmtiết
đều được viết dínhliển vớinhau.
TiếngNhật cũng cùngchung cảnhngộ với
tiếngPhổthông của Trungquốc và mang nhiều
âmtiết đồngâm nhiềuhơn nữa. Trong ướcmuốn
cảicách chữviết, nước Nhậtbản cũng lâmvào
trìnhtrạng tươngtự. Thídụ họ phiên
"to" và "to" cóthể là
mộttrongnhững tiếngHánviệt tươngđương:
đông, đôn, độc, độn, đồn, đốc, đống,
động, đồng... NgườiNhật đành tạo
hệthống viết riêng dùng songsong với Hántự
để phiênâm tiếng ngoạiquốc, nhờđó dân
Nhật cóthể tiếpthu được những kháiniệm
khoahọc kỹthuật mới của phươngTây. Nói
nhưvậy không cónghĩa là chữviết của hai nước
nầy chưahề được cảicách. Họ đã cảicách:
chữHán dùng trong hai ngônngữ của hai xứ này
đã được đơngiảnhoá rấtnhiều. Tómlại,
hai nước Hoa và Nhật nầy đãtừng cảicách
chữviết của họ nhưng chỉ mộtphần, chonên
khôngđược toàndiện và triệtđể.
Và một câuhỏi lýthú cũng đángđược nêura
ở đây: nếu hai nước lớn Áchâu nầy
cảicách thànhcông sang cáchviết bằng
mẫutự Latin, sựpháttriển kinhtế và
khoahọc kỹthuật của hai nước nầy cóphải
là đã tiếnxa hơn hiệnnay không? Hỏi tức là
trảlời. Nếu hai nước Hoa và Nhật cảicách
thànhcông chữviết bằng mẫutự Latin của
họ, thì cólẽ họ đã tiếnxa hơnnữa
sovới hiệntại trong các lãnhvực khoahọc
kỹthuật và kinhtế. Vìsao? Vì chữviết
của họ nếu sớm được cảicách sang
mẫutự Latin thì chươngtrình giáodục cho hơn
1 tỷ dân Trungquốc sẽ được phổcập hơn,
tiếntrình điệntoánhoá hay vitínhhoá trong lãnhvực
tinhọc (informatics) của họ đã đi mộtbướclớn
và dàihơn, và nếu lãnhvực tinhọc có
tiếnbộ thì bướctiến kinhtế của họ còn
đi xahơn và nhanhhơn nữa. Lốiviết dựa trên
Hántự ngàynay của hai nước nầy đã gây
trởngại khôngít trong tiếntrình hiệnđạihoá
côngnghiệp của họ, nhưng họ khôngthể làm
hơn được. Ngàynay họ khôngthể quaylại
từ khởđiểm banđầu của cuộc cảicách
chữviết nữa bởivì chữviết hiệnđại
của họ đãlà mộttrongnhững tiếntrình điệntoánhoá
trong côngnghệ thôngtinhọc.
Tớiđây sẽ có người nóirằng Ðàiloan cũng
hoàntoàn dùng chữHán nhưng họ vẫn đạtđược
tiếnbộ đángkể trong lãnhvực truyềnthông
và kỹthuật điệntoán? Vâng, nhưng vẫncòn
chậmhơn sovới Nhật. Và những tiếnbộ họ
đạtđược là trên cơsở xửlý vitính
bằng tiếngAnh chứ khôngphải là tiếngHán!
Rồi có người sẽ nói: cảicách chữviết
để tiếnbộ nhưng còn trườnghợp BắcHàn,
nước nầy đã cảicách triệtđể loạibỏ
hết chữHán trong chữviết của họ, nhưngï
sao họ vẫncòn sống trong một xứsở nghèonàn
lạchậu nhất thếgiới, trongkhiđó NamHàn
lại vữngmạnh, và chữviết của xứ nầy
vẫncòn giữ những yếutố Hán trongđó mà
khônghề cảitổ? Ðólà vì BắcHàn
phủnhận thựctế kháchquan là sựtồntại
của yếutố Hánngữ trong chữviết của
họ. Yếutố từvựng Hán là một bộphận
của tiếng Ðạihàn, là bảnsắc ngônngữ
của họ, và NamHàn thừanhận yếutố kháchquan
nầy.
Khôngnhững chỉ Ðàiloan, Nam Hàn, Nhậtbản
hay Trungquốc đạtđược những tiếnbộ
kỹthuật về ngành côngnghệ vitính
(Trungquốc ngàynay là một nước có khảnăng
phóng vệtinh thươngmại lên khônggian) dựatrên
xửlý dữkiện bằng tiếngAnh, màcòn những
nước phươngTây nhưlà nước Ðức, nước
Pháp hay nước nào đinữa cũng sửdụng
tiếngAnh làm ngônngữ côngcụ kỹthuật để
xửlý dữkiện, thì nước sanhsauđẻmuộn như
Việtnam trong lãnhvực truyềnthông cầngì đến
sựcảitổ chữviết của mình để cầumong
tiếnbộ nhanhhơn, vì đằngnào Việtnam cũng
phải dùng tiếngAnh côngcụ để xửlý thôngtin
vitính? TiếngAnh là vạnnăng! TiếngAnh là ngônngữ
kỹthuật! TiếngAnh là tiếngnói của
thếgiới! Cứ xửdụng tiếngAnh làm côngcụ
ngônngữ kỹthuật là đủ, cảitổ
tiếngViệt chi cho phiềntoái! Ðó là nhờ
tiếngAnh mởrộng cánhcửa thunhận tấtcả
mọi yếutố -- nhờđó nó pháttriển
mạnhmẽ chăng?
Ðúngvậy, nhưng khôngphải xứ nào dùng
tiếngAnh cũng đạtđược những tiếnbộ
khoahọc đángkể, thídụ Philuậttân hoặc
Jamaica. Nhưng xứta có nói tiếngAnh chăng?
Bạn nghĩ sao về nước Nga và tiếngNga? Nước
Pháp và tiếngPháp? Ðếquốc Lamã và
tiếngLatin?
Có một điều thúvị là vôtình hay hữuý mà
trên thựctế những nước giàumạnh
tiếnbộ đều đã trảiqua tiếntrình cảicách
chữviết của nước họ: ngoài Nhậtbản và
Trungquốc, còncó Ðứcquốc, Hànquốc, Mãlaiá,
Tháilan là những nước điểnhình. Và đặcđiểm
chung của cách đổimới lốiviết của họ là
sự thừanhận sựhiệnhữu của những nhómtừ
đaâmtiết. Phiá Việtnam cũng sẽ lêntiếng:
ô, chuyện nầy nhànước đã làm từlâu, thídụ:
ốc-xít-hoá, cạc-bôn-nat, can-xum, ni-trơ-at,...
Ðúng, chínhphủ Việtnam đã thựchiện một
phần nhỏ, nhưng đólà phần vôbổ, cóhại
nhiều hơn là cólợi, lýdo tạisao ởđây xin
miễnbàn. Khuynhhướng thôngdụng ngàynay
trongnước vẫnlà giữnguyên những từ nướcngoài
khi viết chữViệt. Thựcsự một người cóhọc
ở Việtnam dù không biết tiếngAnh nhưng
vẫn cóthể phátâm đến mộtmức cóthể
chấpnhận được những từ tiếngAnh được
dùng trong chữViệt (dĩnhiên là những từ quá
thôngdụng đã Nômhoá như xàphòng, kem, càrem,
càphê, free, sale, ápphe, xinê... thìchẳng nên
đổi).
Ai học qua tiếngÐức đều biết là
lốiviết nhưlà Informationssystemverarbeitung
(information system processing) của chữÐức là
"lòngthòng" nhất trong các thứ
tiếngẤnÂu, vì bởilẽ kháiniệm nào
bấtkể khi ghéplại dù chữviết có dài đến
dườngnào họ vẫn vuivẻ chấpnhận và
sửdụng trong cáchviết của họ.
Ngaycả chữ Ðạihàn, NamHàn tuy vẫncòn
sửdụng chữviết hìnhkhối (phiênâm và
chữHán) là disản do kếtquả của ảnhhưởng
vănhoá Trunghoa đểlại, họ vẫnphải viết
thành cụmtừ ("kháiniệm") vớinhau:
hyundai = hiệnđại, dongnama=đôngnamá,
fanghuo=phònghoả, phónghoả, Kori= Caoly... nếu
X đạidiện cho một chữkhối bấtkỳ, thì
bạn sẽ thấy những từ trên hiệnra dưới
dạng XX XXX XX XX. Lốiviết thành cụmtừ nhưvậy
cólợi gì về mặt thôngtin? Câu trảlời là
nó khoahọc hơn (phảnánh đúng thựctế của
tiếngnói) và nhanhhơn (xửlý, tiếpthu,
inấn, tiếtkiệm).
Cảitổ chữviết là điềukiện cần chứ khôngphải
là điềukiện đủ để đạtđược
tiếnbộ trong lãnhvực kỹthuật. Khôngcần
phải biệngiải ai cũng đồngý là tiếnbộ
kỹthuật là tiềnđề cho sựpháttriển
kinhtế. Cáchviết tiếngViệt của chúngta ngàynay
ngàycàng xa thựctế nếu sovới bốn thậpniên
về trước, thờiđó tấtcả những từkép
(songâmtiết) đều được nốilại vớinhau
bằng một gạchnối: quốc-gia, bâng-khuâng,
lạnh-lẽo... Càng về sau, lối viết lườibiếng
trởnên chiếm ưuthế vì tiếtkiệm được
một độngtác nốigạch khi viết. Cólẽ
trong tiềmthức dântộc Việtnam, lốiviết hìnhkhối
của chữ Hán thành từng chữ một với
từng kháiniệm một đã ảnhhưởng mạnhmẻ
đến thóiquen nầy của ngườiViệt ta chăng?
Những gì ta đọcthấy trên sáchbáo, liênmạng
ngàynay là lối viết rờira thành từng âmtiết
đơnlẻ -- phảnánh đúng mứcđộ
"bờirời" hay "rờirạc"
của tiếnđộ pháttriển của Việtnam thuộc
nhiều lãnhvực. Dĩnhiên là cảicách
chữviết khôngthôi khôngphải là điềukiện
đủ để pháttriển những lãnhvực khác. Dođó
cảitổ cáchviết chữViệt điềukiện cần
để đạtđược tiếnbộ kỹthuật. Cảitổ
lốiviết tiếngViệt ngàynay bằngcách viết
dínhliền lại vớinhau những từkép
(songtiết) và từđaâm (đaâmtiết) sẽ mangđến
những điểmlợi nêutrên vì nó sẽ rútngắn
thờigian xửlý thôngtin và sẽ xửlý mộtcách
chínhxác hơn.
Tiếng Ðức với từ
"Informationssystemverarbeitung" chỉ cho
ngườita mộtphần nhỏ của một giây để
tiếpthu kháiniệm nầy. Vì khôngai phải đọc
từng vần của từ nầy để nhậndiện ra kháiniệm
mà chữ nầy chuyênchở. Nhưng nếu với cáchviết
rời thành "xử lý bằng hệ thống
truyền thông" thì cái đầu của người
Việtnam phải tiếpthu 7 dạngchữ khácnhau,
qua quátrình phântích mới nhậnra là có bốn
kháiniệm thôngqua 4 từ, rồi sauđó mới
kếthợp thành một cụmtừ-kháiniệm chung.
Nếuphải dịch từngữ nầy theo lối Ðức
thành "xửlýbằnghệthốngtruyềnthông"
thì hơi quáđáng và chướngmắt, nhưng nếu
được viếtthành "xửlý bằng hệthống
truyềnthông" thì kếtquả xửlý và
tiếpthu dữkiện nầy hiệuquả sẽ nhanhhơn
sovới cáchviết rờirạc, và nhưđãnói, ngườiđọc
sẽ đỡ mấtthờigiờ đọc từng chữ, sauđó
mới tổnghợp lại để có kháiniệm toànthể
về cụmtừ-kháiniệm kỹthuật nầy.
Với hằnghàsasố dữliệu thôngtin ngàynay,
nhìn dạngchữ nhậnra kháiniệm nhanhhơn và
hiệuquả hơnlà qua từng chữ-âmtiết. Khi
thấy dạng "international" ta không
cầnphải đánhvần thành in-ter-na-tion-al mới
"thấmnhuần" kháiniệm nầy, ta chỉ
mới thấy dạngchữ của từ nầy là hiểu
ngay. Tươngtự với những chữ đồnggốc
"internationalization",
"internationalism", "international
imperialism", "internationale"... bộóc
ta xửlý chúng với tốcđộ ngangnhau, và nhưthế
nhanhhơnnhiều khi ta mang cáchbiệngiải nầy
sang những từngữ Việt tươngđương như
" quốctế", quốctếhoá",
"chủnghĩaquốctế", "chủnghĩađếquốc
quốctế" và "thếgiớiđạiđồng"...
Ðầuóc conngười đã xửlý nhanh thì máy vitính
xửlý càngnhanh và chínhxác hơn. Thídụ
"chủnghiãquốctế" sẽ tiếtkiệm
cho bộnhớ của máy vitính 3 bytes cho ba
khoảngcách trắng (spaces), khi kiểmlỗi chínhtả
"speller" sẽ làmviệc nhanhhơn và khôngcòn
gặp trườnghợp "chủ nghĩa" nếu
được viếtthành "chu nghiã",
"chủ nghĩa", chú nghĩa" đềuđược
máy vitính dễdàng cho thôngqua! Nóivề
tiếtkiệm giấy in thì chúngta còn tiếtkiệm
tiềnbạc nhiềuhơn là tiếtkiệm
khoảngtrống trong bộnhớ của máy vitính, va
sáchvở inra bớt tốn giấy thì dĩnhiên giáthành
trởnên rẻ hơn!
LÀMSAO ÐỂ CẢITỔ CHỮVIẾT
Có người đã từng hôhào loạibỏ hết
yếutố Hán trong tiếngViệt, cắtđứt sợi
dâydài của lịchsử quanhệ với ngườiHán,
và nếu chúngta làm nhưvậy thửhỏi chúngta
cònlại gì? Một lỗhỗng khổnglồ trong
Việtngữ và trong vănhoá Việtnam. Trongnước
trướcđây một vài nhà lãnhđạo cũng có hôhào
mộtsố phongtrào "giữgìn sự trongsáng
trong tiếngViệt" nhằm loạibỏ mộtsố
yếutố Hán trong tiếngViệt, nhưlà; dùng máybay
thayvì phicơ, dođó chỉ xài máybay lênthẳng,
tênlửa thaycho hoảtiển, sânbay thaycho phitrường...
Nhưng những người hôhào chắc khônghề
biếtrằng: máybay, tênlửa, hay sânbay đều
hoàntoàn có gốcHán. Chúngta cảitổ
chữviết nhưng sẽ không sa vào trìnhtrạng
quáđà nầy.
Trong quátrình pháttriển của Quốcngữ, từ
buổi bansơ đến hiệntrạng của chữViệt
ngàynay, đã có biết baonhiêu đổithay và
sửađổi về mặt hìnhthức kýâm của
tiếngnói nướcnhà. Trong hơn nửa thếkỷ
trởlạiđây, chínhtả Việtngữ đã khá ổnđịnh.
Chính nhờ vào tính ổncố nầy, khi sosánh cáchviết
và thựctế cách phátâm tiếng Việt, khôngkểđến
cáchviết để diễndạt theo ngônngữ hiệnđại
đốilập với kiểuxưa, cách kýâm
tiếngViệt bằng mẫutự Latin cho ta thấy
một hìnhảnh tươngđối về những thayđổi
về mặt ngữâm. Thí dụ, ta viết
"thu" nhưng lại phátâm là /t'ou/, không
phải là /t'u/, "không" phátâm là
/k'ongw/ chứ khôngphải là /k'ong/,
"hộc" phátâm là /hokw/ chứ khôngphải
là /hok/, "ti" phátâm là /tei/ chứ khôngphải
là /ti/, nhưng "tin" phátâm là /tin/
chứ khôngphải là /tein/v.v... Nếu kể thêm vào
giọngBắc, Trung, Nam của từng địaphương,
cáchviết ngàynay dĩnhiên là không hoàntoàn
giữ đúng như thuở banđầu, vì ngônngữ luônluôn
ở trong một tiếntrình vậnđộng và biếnđổi
khôngngừng và nếu quảthật những người sángchế
ra chữQuốcngữ kýâm đúngđắn tiếngViệt
vào thờiđiểm nàođó trong lịchsử. Nhưng
những thayđổi nhỏ nầy về mặt ngữâm không
làm xáotrộn hệthống chínhtả Việtngữ vì
nó không giốngnhư tiếngAnh, là ngôngữ mà
sựphátâm đã thayđổi đến mức đôikhi nói
mộtđàng viết mộtnẻo. Dođó, ởđây chúngta
sẽ không tiếnhành cảitổ cách kýâm saocho
chuẩnxác mộttrămphầntrăm, mà chúngta chỉ
xétđến cáchcảitổ phảnảnh đúng tínhcách
songâmtiết và đaâmtiết của tiếngViệt.
Vấnđề ởđây đặtra là bấtcứ sửađổi
hay cảitổ chữviết nếu không xétđến tínhcách
kháchquan của nó sẽ không baogiờ thựchiện
được. Hiệnthực kháchquan của ngônngữ nóichung
là tiếngnói của nước nào cũng vaymượn
từngữ của những nước lớn hơn mình.
Thựctế kháchquan của tiếngViệt ngàynay là
nó mang tíchcách songâmtiết, với những đặcđiểm
ngônngữ gần giốngnhư tiếngHán, là disản
của sựthẩmnhập một sốlượng từHán
khổnglồ, mà tiếngHán là tiếng mà tấtcả
đạihọc lớn trên thếgiới đều có làm
nghiêncứu và nhìnnhận rằng tiếngHán hiệnđại
là một ngônngữ đaâmtiết (songâmtiết).
Cách diễnđạt tiếngViệt rõràng và logic
nhất vẫn là côngnhận tính đaâmtiết của
tiếngViệt. Có người cholà làm nhưvậy
thể thơ lụcbát hay songthấtlụcbát sẽ có
một lối viết không có dântộctính (bạn còn
nhớ truyện ông Mao Trạchđông mê thơ Ðường
không?). Thựcsự vấnđề này cũng dễ
giảiquyết bởilẽ chúngta sẽ có hai
chọnlựa khi làmthơ: hoặc là cảiđổi hoàntoàn
theo lốiviết mới, hoặclà cứ giữy nhưcũ,
vì đây thuộc lãnhvực nghệthuật và lãnhvực
nầy cóthểkhông bị ràngbuộc bởi hìnhthức.
Cảitổ cáchviết chủyếu là chútrọng đếntính
khoahọc của nó và là để ápdụng vào trong
lãnhvực khoahọc, thídụ nhưlà tạo
thuậtngữ khoahọc mới trong các lãnhvực như
tinhọc, ykhoa, côngnghệ, thươngmại, thưviệnhọc
v.v...
Khi cấutạo hay sángchế từ mới, mộtkhi chúngta
đã chấpnhận sựthưc kháchquan thuộctính đaâmtiết
của tiếngViệt, những thuậtngữ khoahọc
cần được cấutạo để đápứng nhucầu pháttriển
khoahọc hoặc để dịch những kháiniệm
khoahọc mới từ tiếngAnh thì ta cóthể mang
nguyêntắc đaâmtiết ra ápdụng khi dịch. Ở
trongnước những kháiniệm như lênmạng=online,
cổngnối=gateway, nốimạng=connected, trangnhà=homepage...
là những từ được tạora trên nguyêntắc
phântích thànhtố của từ, xong ghéplại thành
từghép để chora từkép hay từđaâmtiết
mới.
Thêmvàođó, mộttrongnhững ưuđiểm của
tiếngViệt là cóthể giatăng sốlượng
từvựng mới mộtcách gầnnhư vôhạn. Tuy
sinhsauđẻmuộn trong lãnhvực khoahọc,
Việtnam cóthể sửdụng khotừ Hánviệt và Hánnôm
của mình để dịch những thuậtngữ
khoahọc mà Nhậtbản là nước đã đitrước
và tiếnbộ về lãnhvực nầy với những
thuậtngữ họ tạora từ tiếngHán. Chuyện
nầy Trungquốc đã thựchiện từlâu khi họ
cho dunhập những từngữ như là chínhtrị,
cộnghoà, dânchủ, tíchcực, tiêucực... vào
trong kho từvựng của họ đềulà những kháiniệm
mới hồi đầu thếkỷ 20 của Tâyphương mà
Nhật đã tạora bằng yếutố Hán. Những
từ này đã làm một vòng Trunghoa trước khi
sang Việtnam! Tươngtự, rất nhiều danhtừ
kỹthuật ngàynay do Nhật tạora vẫncòn được
Trungquốc vaymượn. Tómlại, nhiều
thuậtngữ đã cósẵn, ta cóthể vaymượn
lại và tiếpthu mộtcách dễdàng.
Cũng căncứ và tính đaâmtiết của
từvựng, tiếngViệt đã nẩysinhra những
từ mới như: máyvitính (micro=vi, compute=tinh,
-er=máy), tinhọc (information=(thông)tin,
science=(khoa)học)), liênmạng (inter=liên,
net=mạng), nângcấp (up=nâng, grade=cấp)...
Trongkhiđó, tuỳtheo mứcđộ thôngdụng mà ta
cóthể giữy như chữgốc của tiếngAnh:
chip, bit, bai 'byte', mê 'mega', bo 'board', font,
CD, email, website...
Trong lãnhvực nầy trongnước ngườita đã
thựchiện và tiêuchuẩnhoá khánhiều
thuậtngữ mới và theo nguyêntắc ghéptừ. Nhưvậy,
mộtlầnnữa, đâylà bằngchứng hùnghồn
về tính đaâmtiết của tiếngViệt hiệnđại.
Bạn cóthể thích từ máyđiệntoán hay máyđiệnnão
hơn là cáchgọi máyvitính, nhưng nếu đasố
đã dùng, bạn khôngthể đứùng ngoàilề
mộtmình chốngchọi với dòngnước
lịchsử.
Và nhưvậy, khôngcần phải đợi kếtquả
nghiêncứu nào khác để xácđịnh tínhcách
đaâmtiết (songâmtiết) của tiếngViệt vì
chỉ nội sốlượng hiệnhữu cũa những từ
songâmtiết Hánviệt và tiếngHánnôm (từNôm
có gốcHán), chúngta cóthể tiếnhành
cảitổ ngaytừbâygiờ.
Nhưvậy chúngta sẽ cảitổ gì và bằng cáchnào?
Yêntâm, đâylà một cảitổ rất đơngiản.
Ngônngữ viết chỉlà một phươngtiện
truyềnthông bằng thóiquen và quyước. Nếu
chúngta quyước và ai cũng chấpnhận thì
mọiviệc cóthể thựchiện được. Chúngtôi
không hôhào cảitổ triệtđể như trườnghợp
-s cho sĩ, -z cho gia, s- cho sự, mà chỉ muốn
tấtcả mọingười sửađổi một tíxíu thóiquen:
lợidụng sựnhậndạng những chữ thường
đichung vớinhau -- viết chúng dínhliền lại
vớinhau (quyước nầy cũng do thóiquen mà ra),
vì đólà những từ chúngta nói liềnnhau không
ngắtquảng. Những từkép songâmtiết và đaâmtiết
cùngvới những chữ đichung vớinhau để
diễntả một kháiniệm, và những thànhngữ,
cụmtừ thườngdùng. Thídụ: mặcdù,
vớinhau, nhiềuhơn, đẹpnhất, nhấtlà, đólà,
dođó, chonên, chotớinay, kểtừbâygiờ,
ngaylậptức, từtrướcđếnnay, xãhộichủnghĩa,
chủnghĩatưbản, phầnmềm, hằnghàsasố,
kểkhôngxiết....
Khởiđầu cóthể mỗingười cũng cùng một
cụmtừ nhưng lại viết khác, lâudần vềsau
thờigian sẽ đảilọc, cáigì thường được
dùng nhiềunhất sẽ được giữlại. Ðể có
kimchỉnam đưadườngchỉlối bướcbanđầu,
tạmthời ta cóthể dùng một ngônngữ nướcngoài
làmchuẩn: tiếngAnh hoặc tiếngHán, hay
bấtkỳ ngônngữ nào vì đasố ngônngữ
ngoạiquốc không có lốiviết rờirạc như
lốiviết tiếng Việt của chúngta ngàynay.
Lấy tiếngAnh làm thídụ: although=mặcdù,
scholarship=họcbổng, dictionary=từđiển,
handbook=sổtay, however=tuynhiên, any=bấtcứ,
individualism=chủnghĩacánhân.... Tómlại, nếu
một nhóm chữ thường đichung vớinhau và là
cùngchung một kháiniệm hay một đoảnngữ
quen dùng: cứ viết dínhliền vớinhau!
Có người sẽ hỏi: Ðồngý, đólà cho tươnglai
, nhưng thế còn số sáchvở và thưtịch cũ
đã in của nướcta thìsao? Mộtkhimà ai cũng
quen đọc và viết theo lốimới nầy
(ChữViệt năm 2020, haylà Việtngữ2020), thì
độngcơ kinhtế sẽ làm mọisự thayđổi
hết. Nhàin sẽ tựđộng insách theo nhucầu
ngườiđọc, nếu vào năm 2020 ngườita còn
insách!
Cáilợi đã được phântích, tuy chưa được
sâusắc, đầyđủ và thuyếtphục lắm, nhưng
nếu các bạn nhậnthấy điều đó đúng và
có nhiệttình, bắttay vàolàm ngaybâygiờ,
aiai cũng làm thì còn logì không thựchiện
nổi cuộc cảitổ nhỏbé nầy, nhấtlà bước
thửnghiệm trên liênmạng chẳng tốnkém gì
cả. Bàiviết này là một thídụ điểnhình
vậy!
Ngườiviết bài nầy xin hoannghênh đónnhận
ýkiến của tấtcả các bạn và của quývị
caominh. Một người thì chỉ làmnổi cơn bãotố
trong táchnước.
dchph
Updated 20-03-2006
Click
here for Bìnhluận về "Sửađổi Cáchviết
TiếngViệt" từ ngườiđọc
|