Thầy tôi: Một
giấcngủ dài
Bài cuả Trịnh Nhật
"Ông Hoà bị hônmê rồi!".
Lời anh Đỗ Văn đưatin vào một buổitối cuối thu, khi
trời Luânđôn còn ướtát vì những trậnmưa lấtphất
hồichiều, đườngphố còn tảtơi lá rụng vì những
trậngió thuphong.
Nghe Đỗ Văn nói Thầy bị hônmê mà
tôi vẫnchưa tin vì nghĩrằng anh nóiđuà, thích phaotin
giậtgân. Tôi còn nhớ cái tối hômđó, tối Thứ Sáu
28-10, năm cuốicùng đệnhị thiênniênkỉ, chúngtôi được
mời tới dự một bữatiệc tại nhà cuả anhchị Đỗ Văn,
ở phiá Tây Nam, cách Trungtâm thànhphố khoảng 30 câysố.
Bữatiệc do anh Đỗ Văn, đồngnghiệp cũ Đài BBC,
khoảnđãi thì vừa là đi đón chúngtôi, người từ
Amsterdam đến mà cũng là đưatiễn chúng tôi, người
đikhỏi Luânđôn vào sángsớm ngày hômsau. Tronglúc đang
tiệctùng, lại giậtmình nhớđến Thầy, tôi đã nhờ anh
Đỗ Văn điệnthoại gọi sang Mĩ hỏithăm, nhưng tiếcthay
chỉcó tiếng trong máynhắntin (answering machine). Đànhthôi!
Biết làmsao hơn?
Trướcđó, kểtừkhi được Thầy
chobiết là sẽphải trảiqua một cuộc giảiphẫu tim
quantrọng (by-pass surgery) vàongày 19-10, tôi vẫn đểtâm
theodõi tintức về sứckhoẻ cuả Thầy. Tronglúc đang ở
Hoàlan, mà Thầy thích gọi là Hàlan, tôi đã đôibalần
điệnthoại sang nhà Thầy ở Mountain View, California, mà Thầy
quen gọi 'Mountain View' là 'Sơncảnh', thì chỉ được ghe
giọngnói tiếng Mĩ cuả Thầy trong máynhắntin. Hỏithăm
Thầy qua 'email' thì cũng không hơn gì, vì từ ngày biết
mình bị suytim (heart failure), Thầy đã phải lo giữgìn
sứckhỏe, bớt công bớt việc, không mấy liênlạc
thưtừ với ai, mặcdù Thầy lúcđó đang làm
Việntrưởng Viện Việthọc mới thànhlập ở Garden Grove,
Nam California. Để tránh bớt việc nhận 'emails', từ
điạchỉ điệnthư cũ 'wingdinh@ix.netcom.com', Thầy đã đổi
sang 'dinhhwangwien@earthlink.net', là điạchỉ mà tôi chỉ một
lần duynhất nhậnđược báocáo sứckhoẻ cuả Thầy. Bức
điệnthư, đềngày Thứbẩy, 19 thángtám, năm 2000, Thầy
viết cho Cô, cho các con, cho các cháungoại, khi họ đi
Tháilan nghỉhè đôiba tuầnlễ, mà tôi vẫn còn giữ trong
máy 'computer', có nộidung như sau:
"Dear Wife, Children and Grandchildren: I have
received David's Email and My-Khue's also. Look forward to welcoming back
Pat, Antonio and My-Khue from Bangkok on August 16, and Ba Ngoai, and the
rest of the gang on August 21. Friday phone calls received: HoangThi Trang
(Houston, TX), Chi Nga, Co Trong. Saturday calls from: DuongDucNhu, VienLinh
(Khoi-hanh monthly), Thim Dinh-The, Cu TranTrongPhuc, Viet-Hang, Dinh-Hung,
and TrinhNhat from Sydney. Sunday calls from: Chi Mai (she and anh Van back
from China trip), Annette (from Honolulu) and Bac Ai (from Virginia). I eat
OK, plenty of fruit and vegs, with sa-siu, gio lua, cha gio from our
freezer) as well as the wild rice + broccoli dish and the two huge chicken
pieces that Sharon had given me. Drink a lot of juice, too. I take slow
walks twice a day as usual. Monday Aug 14, 2:30 pm, I have dental
appointment with Dr. Peter T. Yoshida in downtown Mountain View
(650-968-3820). Debbie Viet-Hang, who is in Florida with Tim Fish and the 2
boys for a week, will call Dr. Yoshida to tell him that I have a heart
condition and will need antibiotics before teeth cleaning. Of course, I'll
remind him, too. Until next time, Love, Dinh-Hoa Nguyen."
Thầy Cô Hoà có ba cô congái: Patricia
Mỹ Hưng, Cynthia Mỹ Huyền, Deborah Việt Hằng đều đã
lậpgiađình và đã có con, có cái. Hai cô Hưng, Huyền có
tên Việtnam bắtđầu bằng chữMỹ là vì sinhra trên đất
Mỹ. Cô Hằng sinh ở Việtnam nên tên bắtđầu bằng
chữViệt. Chỉriêng cậu contrai út là Gregory Đình Huân nay
đã gần 40 tuổi vẫncòn vuisống độcthân.
Thầy là người thích giaothiệp rộng.
Ngày còn làm Giámđốc Trungtâm Việthọc ở Đạihọc Nam
Illinois, Carbondale, mà cólúc Thầy còn gọi 'Carbondale' là 'Thunglũng
than', Thầy thích khoảnđãi kháchkhứa tiệctùng, cólẽ
mộtphần cũng vì tài nấunướng khéoléo cuả Cô. Thầy
thích đi dulịch đóđây, không quảnngại đườngxa,
lúcnào cũng vuivẻ tươicười. Thầy thích chuyệntrò,
kểlể. Thầy sốtsắng, maumắn trảlời thưtừ bạnbè,
đồngnghiệp, họctrò cũmới. Ai cần chitiết thamkhảo gì
mà Thầy biết, Thầy sẵnsàng, hếtlòng giúpđỡ, tìm
chobằngđược, không quảnngại giờgiấc.
Trướckhi đi chụpsiêuâm (ultra-sound)
để biết bệnh nặng bệnh nhẹ đếnđâu, Thầy vẫn nghĩ
là bệnh cuả Thầy cóthể chỉ phải trảiqua một
cuộcgiảiphẫu 'thông timmạch', tức là nhẹhơn 'ghép
timmạch'. Trong những cuộcđiệnđàm hầunhư thườngxuyên
với Thầy, Thầy cho tôi biết vẫn nghetheo lời bácsĩ
uốngthuốc 'aspirine' với liềulượng thấp để giữ cho
máu loãng, khỏi bị đóngcục. Ngàynào cũng đibộ hai lần
và cũng đọc xong hai cuốn tiểuthuyết trinhthám. Thầy mê
đọc tiểuthuyết loại này và Thầy đọc rất nhanh.
Thưviện lưuđộng có xehơi mang sáchtruyện đếntận
trướccửa nhà Thầy. Mượnđấy, trảđấy!
Khi biếtđược mình sẽ phải giảiphẫu
timmạch, lấy 4 đoạn gân ở dưới chân đem làm 4 ống
phụ dẫn máu vào tim, phòng khi độngmạch chính bị nghẽn,
Thầy đã tự trấnan mình bằng cách nhắcđến tên và
bệnhtrạng cuả một vị nhạcsĩ, nhà soạnnhạc lãothành,
cũng trạctuổi Thầy. Vị này đã phải giảiphẫu nối cả 7
ống phụ dẫnmáu vào tim, mà vẫn sống, vẫn khoẻ
nhưthường.
Khi vềlại Sydney hồi đầu tháng 11, sau
chuyến Ấudu, tôi maymắn được nóichuyện điệnthoại
với hiềnnội cuả Thầy. Cô Hoà, tên thờicongái là Mít,
chobiết đã 23 ngày rồi Thầy vẫn nằm trong khu hồisinh
cấpcưú (intensive care unit). Cuộc giảiphẫu tim lâu bẩy
tiếng đồnghồ hoànthành tốtđẹp. Bácsĩ chuyênkhoa
phẫuthuật hạngnhất trên thếgiới cơmà! Song, những
biếnchứng sauđó đã làm Thầy mêman. Lượng dưỡngkhí
trong máu Thầy có lúc giảm xuống thấp kinhkhủng. Thầy
còn bị lêncơnsốt, cánhtay Thầy bị sưng... Như Cô Hoà
kểlại, thì mấy ngày trướcđó, Cindy Mỹ Huyền, bácsĩ
chuyênkhoa tâmthần (psychiatrist), vàothăm thì thấy Thầy
mắt còn nhìn nhưthể nhậnra congái mình. Ngóntaycái cuả
Thầy, Thầy còn hơi bẻcụp lạiđược nhưthể radấu là
mình còn tỉnh đấy!
Bẵngđi từ hômấy chomãi tớikhi anh
Phạm Phú Minh, Chủnhiệm báo Thếkỷ 21, chuyển 'email' cuả
anh Nguyễn Đình Cường, cháu cuả Thầy, đềngày Thứtư 29
tháng 11, năm 2000, thì tôi mới biết thêm tintức:
"Cho đến hômnay chưa có gì khảquan
hơn. Tim có hoạtđộng. Thận không đáng quantâm. Phổi vẫn
phải dùng máy thở. Chântay không cựaquậy được. Mắt
không focus được. Vẫn còn trong tìnhtrạng coma."
Nhưthế, tính từ ngày 19-10 đến 29-11,
là Thầy đã coinhư hônmê 1 tháng 10 ngày. Nhưng như 'email'
ngày 16-12 của anh Đỗ Văn chobiết thì, mộtvài ngày
trướckhi mất, Thầy có tỉnhlại và nhậnđược mặt
giađình bàcon. Sau lại biếnchứng, lêncơnđau nữa và
cólúc coinhư Thầy đã chết trong thờigian 12 phút. Lần
ấy bácsĩ cưúsống lạiđược nhờ phươngpháp cấpcưú,
nhưng báohại, họ lại làm chảymáu vếtmổ ở ngực
Thầy. Thế là từđó Thầy hônmê luôn và cuốicùng
giađình Thầy đã quyếtđịnh đànhphải tắt máytrợsinh
(life support) vì kéodài cũng vôích. Thầy chínhthức 'rũ
nợtrần' vào lúc 2 giờ chiều ngày Chủnhật 10-12-2000,
thọ 76 tuổi. Đámtang đưa Thầy đếnnơi annghỉ cuốicùng
được tổchức vào ngày Thứbẩy 16-12-2000.
Từ lâunay, tôi vẫn nghĩ 'chết' chỉlà
trạngthái đắmchìm trong một giấcngủ dài. Ai trong chúngta
màlại chẳngphải trảiqua trongđời một lần vĩnhviễn rađi.
Vì hoàncảnh đấtnước, ngày Mẹ tôi tư giã cõiđời,
người đã khôngcó tôi bênmình. Ngày Bố tôi độtngột
từtrần, người đã khôngcó tôi hiệndiện. Ngày Thầy
vĩnhviễn rađi, tôi đã khôngcóđược một lời từbiệt,
tiễnđưa.
Lần cuốicùng Thầytrò gặpnhau, cáchnay
đã 5 năm, năm 1995, trong bữacơmtối tại nhà Thầy,
lúcđó Thầy Cô còn ở San Franscisco. Dịp gặpgỡ này là
nhân chuyến tôi được Đạihọc San Franscico State University
mời sang thuyếttrình về việc giảngdạy Việtngữ và
Việthọc ở Úc. Nhưng lần đầutiên tôi đượcbiết
đến Thầy thì đã cáchnay 43 năm, năm 1957, khi vẫncòn là
một họcsinh trunghọc, chưa cả biết thi Tútài là gì, tôi
đã tới dự buổilễ trìnhdiện Ban Giảnghuấn và
giớithiệu vị Tân Khoatrưởng, Tiếnsĩ Nguyễn Đình Hoà,
cuả Trường Đạihọc Vănkhoa Sàigòn. Thầy lúcđó mới
ở Mĩ vềnước, và được bổnhiệm làm Khoatrưởng
Đạihọc này.
Tôi chỉ gặp lại Thầy khi chínhthức
ghidanh theohọc tại Đạihọc Vănkhoa vào đầu thậpniên
1960. Lúcđó Thầy là Trưởngban Anhvăn, là Ban kháđông
sinhviên ghidanh theohọc. Tôi học năm Dựbị Anhvăn, và
tôi chọn 'Ngữhọc Nhậpmôn' làm một trong những
mônnhiệmí, thì cũng là "môntủ" cuả Thầy.
Lớphọc thường chậtcứng người, cócả đếnhơn
haitrăm sinhviên dựlớp, đi 'cours'. Sinhviên cókhi phải
đứng ở ngoàisân để nghe bàigiảng, ghi 'cours'. Tôi còn
nhớ, mỗikhi bướcvào lớphọc, trêntay Thầy lúcnào
cũng cầm một tờbáo tiếngAnh pháthành tại Sàigòn,
cóthể là tờ Saigon Post hay tờ Saigon Daily News, để
thỉnhthoảng có đôilời bànbạc thêm tiếngViệt, hoặc
sosánh với loại tiếngAnh, tiếngMĩ thứthiệt, thứgiả
trong báo. Với tháiđộ ungdung, với lờinóinăng thưthả,
từtốn, Thầy đã thổi một làngió mới cho phongtrào
học ngônngữ tại Việtnam. Thầy đã cho sinhviên thấy một
cáinhìn rõ nét về khoangữhọc (linguistics) lúcđó còn
khá mớimẻ đối với Việtnam. Thầy đã truyềnlại cái
sởhọc, cái kinhnghiệm mà Thầy đã thâuthập được sau
10 năm duhọc tại Hoakì cho các mônsinh. Như một địnhmệnh,
tôi đã chọn theo bướcchân Thầy kểtừ ngày đầu
lưuluyến ấy.
Tôi còn gặplại Thầy saunày nhiều
lần nữa, trong lớphọc cũngnhư trong các kìthi vấnđáp,
khi theohọc các chứngchỉ 'Anhvăn Thựchành', 'Ngữhọc
Việtnam', 'Ngữhọc Anh', 'Vănchương vănminh Anh', 'Vănchương
Vănminh Mĩ'. Kểtừkhi Thầy qua Mĩ làm Cốvấn Vănhoá
Toàđạisứ Việtnam Cộnghoà tại Washington D.C. vào năm
1966, rồi sauđó Thầy sang dạyhọc và làm Phó Giámđốc
Trungtâm Việthọc ở Đạihọc Southern Illinois University
(1969-1972) thì tôi chỉ códịp liênlạc thưtừ với Thầy
trong tưcách là Chủbút tờ Nguyệtsan cuả Hội Giáosư
Anhngữ Trunghọc Việtnam mà Thầy đã giúp sánglập và
làm Cốvấn.
Tôi bắtđầu liênlạc thườngxuyên
hơn với Thầy khi tôi sang Úc duhọc tunghiệp vào đầunăm
1974. Và khi đấtnước 'vậtđổisaorơi', tôi đã sang Mĩ
thăm Thầy tại Carbondale vào muàđông năm 1975. Rồi còn
nhiều lần sauđó nữa. Hầunhư trong sáubẩy lần sang Mĩ,
khi thì từ Úc, lúc thì từ Anh, lầnnào tôi cũng cố
tìmdịp ghélại nhà Thầy đôibangày. Saukhi đậu xong bằng
MA (Hons) [Phó Tiến sĩ Hạng Ưu] về Ngữhọc, tôi được
tuyển sang Luânđôn làm cho Đài BBC. Thayvì đichuyến máybay
thẳng sang Anh, tôi đã bayvòng qua Mĩ, để ghéthăm Thầy
cũngcó, mà để Thầy nhắnnhủ đôilời cũngcó. Thầy
đã giớithiệu, dạmvợ cho tôi: một côcháu thuộc loại
trẻtrung, con một bà chịhọ. Hai chịem thấtlạc nhau và mới
tìmgặp lại đượcnhau ở vùng Hoathịnhđốn.
Ngày tiễn tôi lênđường sang Thủđô
Washington D.C., trời muàđông sau ngày Thanksgiving Day (Lễ
Tạơn Chúa) năm 1979, tuyết phủđầy trên lốiđậuxe,
trướccửa nhà. Từ trongnhà khi lăngxăng phụ tôi xách
hànhlí raxe, Thầy đâu có ngờ chiếc vali cuả tôi quá
nặng, đầugối Thầy khuỵ mạnh xuống sàn cái 'huỵch'. Thầy
nhănmặt, suýtxoa. Chắc là đau, nhưng Thầy làmravẻ
khôngsao.
Chuyện 'tiểuđăngkhoa' cuả tôi sauđó
khôngthành. Tình Thầytrò chúngtôi không vìthế mà
sứtmẻ. Cólẽ là tại số tôi 'lậnđận' với
đườngvợcon. Ông Bố tôi, thầy tửvi tướngsố
tàitử, vẫn bảo thếmà! Tuổi Tỵ mà mang chữ Tân, là
Tân Tỵ, nếu lấyvợ trễ thì khôngsao, chứ lấyvợ sớm
thì cóthể phải 'tụchuyền'. Bố tôi tuổi Tân Hợi, mang
chữ Tân, người phải 'tụchuyền', lấy Mẹ tôi là
người vợ thứhai khi ông mớicó 27 tuổi. Bố tôi
saungày tảncư về Phủlý, Hà Nam, thì ítlâusau hồicư về
Hảiphòng năm 1946, trước Mẹ tôi và chúngtôi, người
còn đèobồng thêm một bà nữa.
Khác với Bố tôi, Thầy tôi 'thuỷchungnhưnhất',
'chồngmột vợmột', suốtđời bênnhau. Theo chỗ tôi biết
thì Thầy khôngcó thói trănghoa. Thầy hammê đọcsách, hơn
là mê đànbà, phụnữ. Theo lời cô Hoà kểlại, thì
có năm Thầy sang dạyhọc tiếngAnh ở Marốc, Thầy mê
đọcsách đếnđộ tay lúcnào cũng cầm quyểnsách. Mắt
lúcnào cũng không rời tranggiấy. Đọcsánh trongnhà
đãđành, mà Thầy ra ngoàiđường cũng đọc, vừa đi
vừa đọc, khôngchịu trôngchừng xe cộ, để đếnnỗi
xeđạp nó đi nó tông cả vào người, hấtrơi cả
tờbáo.
Thầy mê đọcsách đãđành, nhưng
Thầy cũng đã viết coinhư khôngngừngnghỉ trong khoảng
thờigian 45 năm, từ 1955 đến gầnkhi Thầy mãnphần.
Cóthể nói tínhtheo trungbình thì nămnào Thầy cũngcó
sách, báo chuyênmôn xuấtbản, ấnhành. Từ sách dạy
tiếngAnh tiếngViệt, từđiển songngữ, đến các bàiviết
về vănhoá, ngữpháp, vănphạm, các bài điểmsách về
ngônngữ, vănhọc, tiểuthuyết. Hai cuốnsách mớinhất
cuả Thầy mà Thầy đắcí là cuốn Vietnamese (TiếngViệt
không sonphấn), xuấtbản năm 1997, và cuốn From the City
Inside the Red River, ấnhành năm 1999, là cuốnsách viết
về cuộcđời Thầy, xuấtthân từ thànhphố Hànội, nhưng
cũng cònlà cuốn hồikí viết về những đặctrưng
vănhoá cuả cái thànhphố bên dòngsông Hồng vào giữa
thếkỉ 20. Thầy đã khởisự viếtlại hai cuốn sách trên
sang tiếngViệt.
Năm 1987, Thầy sang Úc thuyếttrình về
"Vietnamese Lexicography" (Vấnđề biênsoạn từđiển
Việtngữ) tại Hộinghị Thếgiới về Ngữhọc lần thứ
10, được tổchức ở Việnđạihọc University of Sydney. Ra
đón Thầy tại phitrường Mascot muàđông nămấy, có tôi
và anh Đào Dũng, cũng là mônsinh cũ cuả Thầy. Giáosư
Đào Dũng lúcđó làm Chủnhiệm/Chủ bút Tờ Tuầnbáo
Việtluận. Thầy về ởchung với vợchồng tôi ở Bankstown.
Lúcđó chúngtôi còn ở trong một căn 'flat', cuả một
toànhà cao 8 tầng. Sauđó tôi đã đượcdịp tháptùng,
đưa Thầy đi thamquan, nóichuyện tại nhiều nơi ở Úc.
Ở Sydney, Thầy đến thăm các lớp
dạy Việtngữ thuộc Trường Thứbẩy dạy Ngônngữ
Cộngđồng (Saturday Schools of Community Languages) và diễnthuyết
ở Viện Caođẳng Macarthur Institute of Higher Education (tiềnthân
cuả Việnđạihọc University of Western Sydney, Macarthur), là nơi
tôi đã giảngdạy nhiều năm về Việtngữ, Việtvăn và
Thôngngôn Phiêndịch. Thầy cũng còn tới nóichuyện về
phươngpháp giảngdạy tiếngAnh cho ngườiViệt với các
giáosư thuộc nhiều nguồngốc sắctộc đang dạy Anhngữ cho
Sở Giáodục Didân Trángniên [Adult Migrant Education Service
(AMES)] ở North Sydney, có cả chị Monique Hoa Lockhart là
giáosư kìcựu ởđấy thamdự. Thầy cũng đã đến với
đồnghương và nóichuyện tâmtình tại Vănphòng
Cộngđồng NgườiViệt Tựdo ở Bankstown. Trong một
bữatiệc do các thânhữu và các mônsinh cũ khoảnđãi
Thầy ở Nhàhàng Quốc Khanh, Cabramatta, tôi thấy cócả cố
Giáosư Nguyễn Hoàng Cương, lúcđó là Chủtịch Hộiđồng
Vănhoá Giáodục Tiểubang NSW cuả Cộngđồng ngườiViệt
Tựdo, cócả anh Lưu Tường Quang, lúcđó làm Giámđốc
Liênbang cuả Bộ Ditrú và Sắctộc Sựvụ tại Tiểubang
NSW. Thầy Hoà saunày đã không dấuđược niềm hãnhdiện
khi tôi cho Thầy biết một mônđệ cuả Thầy, một 'Giáosư
Anhvăn thứthiệt' (tốt nghiệp Đạihọc Sưphạm Ban Anhvăn,
và đậubằng Cửnhân Giáokhoa Anhvăn, Đạihọc Vănkhoa
Sàigòn), nay là Luật sư Quang Lưu, Tổng Giámđốc Hệ
thống Phátthanh Đặcbiệt SBS, một viênchức liênbang
caocấp nhất Úcđạilợi có nguồngốc Việtnam.
Trong chuyếnđi Melbourne, đoạnđường bộ
dài gần 1000 cây số, tôi có bàxã Anh Thư phụ láixe
chở Thầy đi và chúngtôi ngủlại trong 'motel' ở Gundegai,
một thịtrấn trên đoạnđường Sydney-Melbourne, cách Sydney
khoảng 5 giờ láixe. Ở Melbourne, Thầy được mời tới
thuyếtgiảng mộtsố đềtài về vănhoá và ngônngữ
Việtnam trong haiba ngày chươngtrình dầyđặc do Giảngsư
Nguyễn Xuân Thu dàndựng cho sinhviên và Ban Giảnghuấn
Trường Phillip Institute of Technology họctập, thamkhảo. Thầy
cũng đã tới nóichuyện với cộngđồng ngườiViệt ở
Victoria trong một Hộitrường đôngnghẹt người tại
Tiểubang này. Chúngtôi còn đưa Thầy tới thăm trusở
mới cuả Đàiphátthanh Úcđạ lợi (Radio Australia), là nơi
Thầy có người bạntâmgiao lâunăm không gặp. Trong
chuyếnđi thamquan này, chúngtôi còn được sự
hướngdẫn cuả Giáosư Kígiả Nguyễn Ngọc Phách, một
nhânviên kìcựu cuả Đài. Anh Nguyễn Ngọc Phách là
bàođệ cuả Giáosư Nguyễn Ngọc Linh, và ông Linh là
bạnthân cuả Thầy từ đầu thậpniên 1950 tại Mĩ.
Tôi ngheđược tin chínhthức "Thầy
khôngcòn nữa!" qua Đài SBS Radio vào tối Thứba
12-12-2000. Một cảmgiác bànghoàng, sữngsờ. Một
nỗinghẹnngào, mấtmát. Một sựhoangvắng trong tâmhồn...
Thầy ơi! giãtừ nhau rồi ư?... Cuộchẹn gặplại Thầy vào
Thángtư, muàxuân bênấy, đành bỏdở sao, Thầy?
Thôithì đànhvậy! Trời kêu ai người
ấy 'dạ'. Biết nói gì hơn? Thầy tôi, Giáosư Tiếnsĩ
Nguyễn-Đình Hoà, concháu nhàquan, 'đẹpgiai, họcgiỏi, con
nhàgiầu', đã thậtsự đang đắmchìm trong giấcngủ
dài...!
Trịnh Nhật
Niềmtưởngnhớ khônnguôi
Sydney, Thángchạp, Đệnhị Thiênniênkỉ
Everlasting memories
Sydney, the final month
of the second millennium