"Góp
Ý Ðôi Ðiều"
về
"Sửađổi
Cáchviết TiếngViệt"
Nguyễn Phước Đáng
Người bên kia đầu dây tự giớithiệu là Lê-Bình. Anh chưa quen
biết tôi, nhưng anh nghe một bạn văn nói rằng tôi quantâm đến
chuyện cảitiến chữ Việt mà gọi phone đến làmquen, chỉ cho tôi
website www.vn2yk.com, đềnghị tôi tìm đọc thử những bài viết
cảicách của nhiều tácgiả.
Ngay sau cuộc điệnđàm, tôi tìm đọc những thứ ấy. Từ những
bài viết đó, tôi cảmhứng viết bài góp ý nầy. Cái cảmhứng
đầutiên là biết được đang có một nhóm trẻ Việtnam (tôi kể
40- 50 là trẻ, dĩnhiên dưới 40 cũng là trẻ), tại quê người, đấm
mình trong Tâyhọc, mà còn quantâm đến chữnghĩa nước nhà. Từ lâu,
tôi cứ nghĩ chắc chỉ còn một số rất ít những người lớn
tuổi còn lưuluyến quốcngữ mà thôi. Tôi mừng lắm vì thấy mình
không quá lẻloi trong việc đềnghị cảitiến chữ Việt. Mình đâu
còn mấylămhơi để đi suốt con đường cảitiến. Đám trẻ mới
là lựclượng đạt được thànhquả mongđợi.
Tôi đọc hầu hết những bài viết loại đó trong Vny2k. Có thể nói
tuy nhiều bài, nhưng chỉ có một đềnghị duynhứt là viết dính
liền những từ đaâmtiết. Trong bài viết nầy, tôi chútrọng
nhiều đến bài “Sưađổi Cáchviết ChữViệt”(Chữ Việt năm
2020) của tácgiả dchph và bài “Ngônngữ & Trítuệ” của
Nguyễn-Cường. Tôi đọc ít ra là 2 lần mỗi bài: lần đầu để
biết nộidung bài viết, lần sau tôi ngừng từng chập để ghi ra
những chỗ cần góp ý.
Cảmnhận trước hết của tôi là những người chủxướng viết
dính liền là những người chịu ảnhhưởng Tâyhọc quá nặng.
Theo tôi, viết có gạch nối triệtđể các từ ghép là đủ rồi.
Tôi nói triệtđể có nghĩa là viết có gạch nối luôn cả những
từ ghép Nôm. Trước kia, trong Nam là trước 75, mọi người từng
viết có gạch nối những từ ghép, nhưng chỉ những từ ghép Hán-Việt
mà thôi. Tôi đềnghị, nếu viết có gạch nối, thì nên viết có
gạch nối luôn những từ ghép Nôm, vì lý nào mà từ ghép nầy (Hán-Việt)
viết có gạch nối mà từ ghép kia (Nôm) lại không (Viết vậy là
không nhấtquán). Do quá thathiết với chủtrương mới nầy, nên,
theo tôi, những người chủxướng nóng vội, có vẻ như thiếu
nghiêncứu đầy đủ trước. Ý tôi muốn nói là quí vị chưa đưa
ra rõràng quitắc viết dính liền. Quí vị có nói viết dính liền
những từ ghép, nghĩa là những chữ ghi lại lời nói đaâm. Có nói
như vậy, nhưng khi đọc bài của quí vị, tôi có cảmgiác quí
vị viết dính liền tuỳ hứng, nghĩa là quí vị viết dính những
từ, theo tôi, không phải là từ ghép, nghĩa là cắt rời ra những
chữ viết liền nhau đó, thì hai hay nhiều chữ đó vẫn có nghĩa,
đứng một mình được. Số chữ được quí vị viết dính liền
như vậy nhiều, nhiều lắm, ghi ra không xuể. Tôi đọc và ghi ra
được chừng hơn nửa bài của quí vị thì đã đầy trang giấy
rồi, nên tôi bỏ cuộc, không ghi ra hết.
Dưới đây, tôi chép ra một số từ nêu trên, nhiều được đến
đâu hay đó:
Chép ra từ bài viết của tácgiả dchph:
Cáchviết, chữViệt, chậmnhất, khácnhau, đólà, chữviết,
cầnphải, khôngphải, nàođó, khôngđược, nhưlà, manglại, câuhỏi,
nhậnthấy, Háncổ, bướcpháttriển, nhưvậy, khôngcòn, chorằng,
từxưađếnnay, từsongâmtiết, gióheomay, ngủlibì, dốtđặccánmai,
cờbayphấtphới, cáchnhìn, đềuđược, tựhỏi, gầnnhư,
gạchnối, nếucóchăng, đichung, theokiểunày, khôngngừng, thêmvàođó,
cọngthêmvới, bỏthìgiờ, trongbài, cầnđược, thiênvề....
Chép ra từ bài viết của tácgiả Nguyễn-Cường:
Đấngthiêngliêng, câutrảlời, quánhiều, mẫusốchung, thídụnhư,
dùngđể, nghegiảng, bàihọc, còncó, trínhớ, câychuối, sauvườn,
bằngcáchnào, saucùng, lậplại, gầngiốngnhư, băngngang, cảhai, bêntrái,
đưatay, gạtđi, nếucó, vậtlạ, trướckhi, ngoàiýmuốn, đisâu, cũngxin,
chorõ, sựhiểulầm, chỉmớilà, chưađủ, cáchkhác, cáichuyện, chưacóai,
đưaqua, trướckhi, vốnsẵn, tínhtrời, sinhrađời, khoảngchừng,
ngaytạiđây, máyvitính, màbâygiờ, ngaytrên,...
Tôi thật tình không biết các chữ theokiểunày, cọngthêmvới,
bỏthìgiờ, cũngxin, chỉmớilà, sauvườn, băngngang, bêntrái, đưatay...
quívị viết dính liền là theo nguyêntắc nào. Tôi nghĩ chắc quí
vị dịch sang tiếng Mỹ, và thấy chữ nào Mỹ viết có một chữ
mà chữ Việt mình có nhiều chữ thì nhiều chữ đó phải viết dính
lại mới đúng phép. Nếu đúng như vậy thì thật là ngâyngô (và
như tôi viết ở đầu bài là quí vị chịu ảnhhưởng Mỹ hay
ngoạiquốc quá nặngnề)
Xin phép nhắc lại, do thấy những chữ viết dính liền như vậy
quá nhiều, nên tôi có cảmtưởng quí vị viết theo cảmhứng mà
không theo một quitắc nhấtquán nào cả. Tôi cho rằng quí vị nóng
vội, vì quí vị kêu gọi nhiều người viết theo lối mới như quí
vị, mà quí vị không nghiêncứu đưa ra quitắc để người ta có
thể theo đó mà làm được.
Bâygiờ, tôi xin bàn thêm về chuyện đaâm và đơnâm trong lời nói
và đaâmtiết và đơnâmtiết trong chữ viết. Tôi phânbiệt trong
lời nói thì có lời đơnâm và có lời đaâm, còn chữ viết thì
có chữ đơnâmtiết và chữ đaâmtiết, nghĩa là chữ có một
vần hay chữ có nhiều vần (âmtiết=vần) Chữ có 2 vần, 2 âmtiết,
thì còn gọi là chữ songâmtiết.
Trong sách “Tiếng Việt & Chữ Việt”(1) có bài viết “Đơn
hay Đa”, tôi viết đạikhái như vầy:
“Nếu từ ngônngữ và từ tiếng chỉ có nghĩa là lời nói thôi,
không gồm chữ viết trong đó, thì tôi rất đồngý với Giáosư
Nguyễn Đình-Hoà là ‘tiếng Việt là ngônngữ đatiết (đaâmtiết)’
”
Tôi viết tiếp ở đoạn sau:
“Chữ viết Việtnam (hay chữ quốcngữ hiện đang dùng) thuộc
loại chữ đơntiết. Baogiờ ta viết dính chùm như vầy kiếntrúcsư,
câulạcbộ, kịchtácgia... lúc đó ta sẽ có quyền nói lại ‘Ngônngữ
Việtnam (tiếng nói và chữ viết) đaâmtiết như chữ Pháp và
Mỹ’ ”
Tôi viết trong sách rằng tiếng nói của bất cứ dântộc nào cũng
đaâm. Vậy xét đơn hay đa là xét trên chữ viết chứ không phải
xét trên lời nói. Tôi nói theo suyluận có dẫngiải, nhưng bị nhàvăn
Diệu Tần (tức Giáosư ngônngữ Nguyễn Tinh Vệ) phêbình là là không
chắc. Ông hỏi tôi có nghiêncứu hết các thứ tiếng trên
thếgiới chưa, mà dám quảquyết là tấtcả đều đaâm? Tôi
chịu thua, vì nềntảng suyluận của tôi đúng là không vữngchắc
trước câu hỏi cụthể như vậy. Nay tácgiả dchph cũng nghĩ là
tất cả ngônngữ trên thếgiới đều đaâm. Tôi nhớ lại câu
hỏi của nhàvăn Diệu Tần. Và không biết dchph dựa vào tàiliệu
nào hay cũng chỉ căncứ vào suyluận như tôi?
Trong quyển sách “Quốcngữ Lưuvong” sắp in xong, tôi phátbiểu
đạikhái là từ trước khi có chữ quốcngữ, ta có chữ Hán (đọc
theo giọng Việt) và chữ Nôm. Hai thứ chữ đó là loại đơntự
(mỗi chữ đọc ra một tiếng mà thôi). Cái ảnhhưởng đơnâm,
đơntự đó bámvíu lấy dântộc ta cho đến bâygiờ, dù ngày nay
ta có thứ chữ kýâm dùng hệthống mẫutự Latin. Từ trước, người
xưa vẫn biết lời nói của dân mình là đaâm, nên đã từng dùng
dấu gạch nối để liênkết số chữ rời (đơntự) ghi lại lời
nói đaâm thành từ ghép, một hìnhthức khác của từ đaâmtiết,
dunghoà cái ảnhhưởng đơnâm và nhucầu đaâm. Ngày nay, đaiđạsố
lại bỏ dấu gạch nối, biến chữ viết thành thứ chữ đơntiết.
Đó là một chuyểnbiến không phải là thiếu căncơ, nói một cách
khác nặng lời hơn như lời phêphán của ông Đoàn Xuân “Chữ
Việt không có gạch nối là chữ sơkhai”(1) Mà vôtình người ta
pháthiện thấy viết thiếu dấu gạch nối không sao cả, không làm
người đọc hiểu khác với ý người viết. Một lần thấy vậy,
nhiều lần thấy vậy và gần như tấtcả các lần đều thấy
vậy, nên mọi người mạnh tay bỏ luôn dấu gạch nối. Mà quả
đúng như vậy. Bây giờ trên 90% sáchvở, báochí trong nước, ngoài
nước viết không có gạch nối, mà mọi người đọc đều hiểu
đúng với ý người viết. Vậy nhìn chữ Việt đang dùng mình phán
được một câu như đinhđóngcột là “chữ Việt đơn âm
tiết” (Tuynhiên, xét thật kỹ thì có một số khá lớn chữ
Việt đang lưuhành là songâmtiết mà tôi đặt tên cho nhóm chữ đó
là chữ hoàâm. Đó là các chữ Nguyễn, Hoàng, Tuấn, Tuyết,
Thoảng... Mỗi chữ có hai âmtiết: Nguyễn có âmtiết Ngu và âmtiết
yễn (vần xuôi Ngu và vần ngược yễn). Đọc 2 âmtiết liền
lại thì ra Nguyễn; Hoàng = Ho+àng; Tuấn = Tu+ấn; Tuyết = Tu+iết,
Thoảng = Tho+ảng...)
Dưới tên tựa chính “Sửađổi Cáchviết ChữViệt”, tácgiả
dchph thêm tên tựa phụ “ChữViệt Năm 2020”, người đọc hiểu
đây là tiênđoán của tácgiả, đến năm 2020 thì chữ Việt sẽ
được viết như vậy. Tôi nhậnđịnh đó là một tiênđoán không
thấy được. Dưới đây là lậpluận cho lời nhậnđịnh của tôi:
Tôi là người đang rất thathiết với chuyện cảitiến chữ viết
quốcngữ, bỏ tiền in quyển “Tiếng Việt & Chữ Việt”, không
lấy lại được vốn, lại sắp sửa bỏ tiền in quyển
“Quốcngữ Lưuvong”, chắc cũng khó lấy lại được vốn, để
mong phổ biến ước vọng cảitiên của mình. Trong quyển sau, tôi
in 4 bài bằng lối viết dính liền các từ ghép. Như vậy, tôi là
người đang đấm mình trong cách viết và đọc các chữ viết dính
liền. Tôi có quitắc để tuân theo mà viết dính liên. Vậy mà tôi
không tin là đạiđasố người Việt chấpnhận chuyện viết dính
liền. Quitắc để viết dính liền không có gì rắcrối cả, chỉ
tómgọn có một câu “Viết dính liền những từ kép” Xácđịnh
rõ hơn thì thêm địnhnghĩa “Từ kép là nhiều từ đơn ghép
lại, nếu cắt rời ra thì từng từ đơn đó không đủ nghĩa, không
đúng với ý người viết” Đơngiản như vậy, nhưng không
thựchiện nổi, vì ngay những nhàvăn nhàbáo cũng mùmờ về từ kép,
nhứt là từ kép Nôm. Vănsĩ, kýgiả, những người sửdụng
chữnghĩa hằng ngày mà còn như vậy, thì mọi người bìnhthường
khác còn tệ hơn biết bao. Tôi đọc trôichảy những chữ viết dính
liền của quí vị gần bằng tốcđộ đọc chữ bìnhthường. Nhưng
tôi đoán nhiều người không đọc dễdàng như vậy. Và đọc khókhăn,
không thoảimái thì người ta không đọc. Đọc mà còn vậy, thì
viết còn khókhăn hơn nữa. Tôi có cảmgiác là quí vị chỉ nhắm
vào đốitượng là những nhà ngônngữhọc, mà giới nầy có được
bao nhiêu người. Vậy cái thờihạn 18 năm nữa chữ Việt viết dính
liền được phổcập rộngrãi là không thựctế, là khôngtưởng.
Giảvụ, nếu đềnghị cảicách nầy được Hànlâmviện quốcgia
chấpnhận đi nữa, thì thờigian 18 năm cũng không đủ để
thựchiện nổi. Côngviệc đàotạo độingũ giáoviên thật camgo và
lâu dài...
Nói là nói vậy cho hết lẽ, nhưng tôi rất hoanngênh ýkiến cảicách
của quí vị. Tôi hoanngênh vì lýdo hợplý, tiếng nói đaâm thì
chữ viết cần đaâmtiết cho phùhợp, chứ không phải vì tin vào
lời suyđoán rằng dântộc có chữ viết đaâmtiết thôngminh, thànhcông
hơn dântộc có chữ viết đơnâmtiết. Chuyện thôngminh, tiếnbộ,
thànhcông... tuỳthuộc vào nhiều yếutố khác quantrọng hơn là
chữ viết. Những thínghiệm mà tácgiả Nguyễn-Cường nêu ra trong
bài viết nghe có vẻ khoahọc, nhưng tôi không tin là đúng như
vậy. Nhiều người chắc cũng không tin “đổi chữ viết thành đaâmtiết
thì sẽ làm cho dântộc mình tiếnbộ hơn”. Tôi tin “đổi chêđộ
thành tựdo, dânchủ thì chắc dântộc mình khá hơn mọi mặt kể
cả mặt trítuệ”.
Tácgiả dchph có gợi ý phươngthức cảicách dùng s thay cho chữ sĩ,
để gắn vào phía sau những chữ thi, ca, nghệ, văn... mà thành ra
this (thisĩ), cas (casĩ), nghệs (nghệsĩ), văns (vănsĩ)... dùng f thay
chữ phi để gắn vào phía trước những chữ nghĩa, lý, quânsự,
chínhphủ mà thành ra fnghĩa (phinghĩa), flý (philý), fquânsự (phiquânsự),
fchínhphủ (phichínhphủ)... Làm như vậy là ta có tiếpvĩngữ,
tiếpđầungữ như chữ Pháp, chữ Anh. Những ýtưởng cảicách như
vậy làm lộ rõ chuyện chịu ảnhhưởng nặng ngôn ngữ Pháp, Anh.
Quốcngữ, chữ Việt ta đang dùng, là thứ chữ kýâm, dùng kýhiệu
Latin ghi lại tiếng nói, nó có những quiước âm nào ráp với âm
nào thì ra tiếng gì. Nay ta lại quiước một lần nữa một âm
thay cho một chữ, s=sĩ; f=phi z=gia, th=thuật... thì loạn rồi.
Những quiước loại nầy chỉ dành cho tốcký mà thôi. Ghi bằng
tốcký rồi, sau đó phải chuyển lại thành chữ thường người
khác mới đọc được. Bắt mọi người đọc chữ tốcký thay cho
chữ thường là vôlý và khôngtưởng.
Tôi là người hiểu thấuđáo cách viết dính liền cảicách của
quí vị, bằngchứng là tôi viết trôichảy được bài nầy theo cách
viết đó, và có lẽ còn chuẩn hơn quí vị, tôi không viết dính
liền quá đáng như những chữ tôi đã chép ra ở trên. Tuynhiên, tôi
chưa cổxuý cho việc nầy, vì còn nhiều vấnđề cần cẩnthận xét
lại, như chuyện xé rời các chữ đaâmtiết ra để dạy đọc và
viết cho con trẻ, rồi sau đó mới nhập lại. Tôi nghĩ, để rời
ra dạy con trẻ dễ và mau biết đọc biết viết hơn. Nói về
mặt toàn dân thì chuyện dạy cách nào cho mau đọc được, viết
được là điều cầnthiết. Từ đọc được, viết được đến
hiểu được ýnghĩa chữ viết không khó. Đi con đường chữ đơnâmtiết
nhanh gọn hơn con đường chữ đaâmtiết.
Còn về mặt thica nữa. Thica thuần Việt có vè (mỗi câu bốn
tiếng), thơ lụcbát (câu sáu tiếng rồi câu tám tiếng), thơ
songthấtlụcbát (hai câu bảy tiếng, rồi câu sáu tiếng, đến câu
tám tiếng) Thơ chịu ảnhhưởng của Tàu là thơ ngũngôn (mỗi câu
năm tiếng), thơ thấtngôn (mỗi câu bảy tiếng), thơ Đườngluật
(bài tám câu, mỗi câu bảy tiếng) Từ trước mỗi chữ Tàu, mỗi
chữ Việt là một tiếng. Nay các chữ đaâmtiết có từ hai đến
ba, bốn, năm tiếng, chừng làm thơ phải xé rời ra chăng để đếm
xem câu thơ thừa thiếu tiếng ra sao! Câu đối nữa! Mà thica, câu
đối là một khuvực vănhoá trong tâmhồn dân Việt, thiếu không
được. Tôi nghĩ, quívị chưa nghiêncứu đủ mọi khía cạnh khác,
mà chỉ cảtin vào một phỏngđoán không chắc là “thứ chữ đa
âmtiết làm con người thôngminh, tiếnbộ hơn” rồi hốihả
viết dính liền chữ Việt lại, không cần nhìn trước ngó sau.
Tôi chântình góp ý với quí vị và đềnghị cùng quí vị có
nhiệttâm về vụ nầy “quí vị hãy họp nhau thảoluận,
củngcố lập luận vữngchắc, tìm cho ra quiđịnh nhấtquán về
từ ghép” để có cho kỳ được một quitắc chấpnhận được,
rồi in thành một tập sách như là một luậnán ngônngữ vậy, côngbố
cho nhiều người biết, rồi chờđợi khi nào quốcgia có Hànlâmviện,
chánhthức trình luậnán đó để được cứuxét. Theo tôi, cảicách
viết dính liền chữ đaâmtiết chỉ thựchiện được trên
tầmcỡ quốcgia. Quí vị đang có tưtưởng cảicách tầmcỡ như
vậy là một hảnhdiện tolớn. Tôi rất kínhtrọng quí vị trên phươngdiện
nầy. Chúc quí vị thànhcông./-
San Jose, đầu Xuân 2002 (3/2002)
Nguyễn Phước Đáng*
Tel: (408) 929- 7318
(1) Tiếng Việt & Chữ Việt của Nguyễn Phước Đáng,
xuấtbản năm 2001
(1) Nguyênvăn “có hai loại tác-phẩm, một là của những người
dùng Việt-ngữ sơ-khai và hai là của những người dùng
Việt-ngữ tiến-bộ” Ông Đoàn Xuân phán rằng viết không có
gạch nối từ kép là dùng Việtngữ sơkhai.
* Đềnghị quí vị tìm đọc quyển Tiếng Việt & Chữ Việt
của tácgiả, xuấtbản năm 2001 và quyển “Quốcngữ Lưuvong”
sẽ phát hành vào tháng 5/2002
|
Trảlời
của
dchph
Cảmơn
anh đã chântình gópý và bìnhluận về vấnđề nầy.
Tôi
nghĩlà anh không lẻloi trên chiếntuyến vănhoá này đâu -- đâylà
vấnđề chung của mọingười trong chúngta, phảicó người
đưara ýkiến, cóngười dấyđộng, thì ýtưởng về vấnđề
nầy mới được ngườita biếtđến, mới gâyđược ảnhhưởng
hầumong tạothành phongtrào. Trong vậnđộng nào cũng phảicó
ngườicầmcờ đitrước. Như anh thấyđấy cuộcchiến camgo
đang bướcvào hồi lâmtrận.
Trangnhà
vny2k là "vùngbắn tựdo", không nhấtthiết phải theo
một ýtưởng hay đềnghị nào, mỗingười đều cóquyền nêura
quanđiểm của mình, miễnlà chấpnhận sựcảicách. Cóthể
anh sẽ khôngđồngý với tôi về chủtrương nầy trong vấnđề
"Cảicách TiếngViệt", nhưng mộtkhi ýtưởng cảicách
đã chínmuồi được nhiều người quantâm và chấpnhận, đếnlúcđó
ta sẽ bàn sâuhơn vào chitiết. Mỗingười một ý, ýtưởng nào
được sựtánthành nhiềunhất là ýtưởng nên được mangra
bànthảo. Kếtquả nào cũng tốt cho côngcuộc cảicách
tiếngViệt. Côngtrình nầy cóthể 18 nămsau mới cóthể
thựchiện được, cóthể chẳngbaogiờ, cũng cóthể là ba năm
sau. Nắmđược quyềnlực trongtay là làmđược chuyện nầy.
Nhưng phải đặt cảicách lên hàng ưutiên -- biết sai thấy
sai mà không sửa đãđành, còn "ăn khôngđược thì pháthối"
là một tháiđộ khôngthể chấpnhận được.
Cáikhókhăn
của ýhướng cảicách là những chướngngại
trongviệc gầydựng một vườnhoa vănhoá mới. Cầnphải đặtđểlại
những cổthụ cằncổi trong vườn chođúng giátrị đúngđắn
của những câykiểng, khônghơnkhôngkém. Việcquantrọng là
gầydựng những mầmnon mới. Cáicách đánhvần kiểu Việtnam
chúngta học ngàyxưa tôi nghĩ khôngcòn thíchhợp, chúng làm đầuóc
trẻ pháttriển theo mộtcách thấycây mà không thấy rừng,
thiếu cáchnhìn trừutượng vào sựkiện và vấnđế.
Ðâylà
một mặttrận vănhoá, đasố người thamdự dùcho ai có khiêmnhượng
thếnào, họ cũnglà người hiểubiểt và có vănhoá, có suyngĩ
và ýtưởng riêng, kểcả những địnhkiến cósẵn không
dễgì mà thuyếtphục được. Người Việtnam chúngta, theo
nhậnxét khônghẳn là của riêngtôi: trithức Việtnam mình thường
chẳngcó ai phục ai, đặcđiểm chung là thiếuđoànkết,
thủcựu, ngại và sợthayđổi, và không ít người mang đầuóc
kìthị và hẹphòi. Nếu không thẳngtay đậptan những
trởngại đó, ngườiViệt chúngta baogiờ cũng sẽ theođuôi
ngườikhác và khôngbaogiờ có sángkiến, chấpnhận đổimới.
Lịchsử bốnngànnăm ngườiViệt mình hãnhdiện đãđành, nhưng
60 năm của việcchínhthức đưa Quốcngữ vào việcthựchành
thì cógì để đáng vênhmặt tựhào?
CHÚNGTA
CẦN CẢICÁCH, KỂCẢ CẢICÁCH MỌITHỨ, CÁINẦY LÀ TIỀNÐẾ
CHO CÁIKHÁC.
Ngàyxưa,
tôi tưởngtượng là những người đầutiên khi mới nghĩra cáchviết
chữNôm, dựavào chữHán, chắc đã khốnđốn khôncùng với
những taynhohọc ômkhưkhư những giátrị cũ, sợ cáimới, e
nó sẽ làm maimột cáicũ là cái duynhất họ còn giữđược.
Ðốivới tôi, cáigì mới, cáimà có người gọilà Tânhọc,
chodù nếuphải bắtchước ngườikhác, nếu họ hay họ đúng
thì cứ việc theo.
Còn
việc anh cholà chúngtôi ảnhhưởng Tạyhọc quánhiếu, tôi
nghĩlà anh chỉ nhậnxét trên mặt hìnhthức, nhìnkỹ, anh sẽ
thấy dưới cái chiềusâu bêndưới, cáinền là Hán là Nôm.
Tôi
rất tôntrộng ýkiến của anh và xin ghinhận những bìnhluận
tíchcực của anh. Thựcsự bàiviết của tôi chỉlà một
gợiý, chẳnglà một nghiêncứu hay luậnán gìcả, cóthể có
cáiđúng và có cáisai. Cáchnhìn của anh về mộtsố vấnđề
trong Việtngữ thựcra chắc không khácgì tôi mấy, cókhácchăng
chỉlà mộtvài góccạnh quansát và nhìn vấnđề. Thídụ: anh
chủtrương viếtnối những từkép HánViệt và những từkép
Nôm -- nghĩalà những từ mà trướckia thếhệ chaông của chúngta
viết với cái gạchnối - . Và anh xem từkép (từghép trong trườnghợp
nầy khôngđúng) là những từ khi táchrờra tự những âmtiết
táchrời sẽ khôngcòn mang ýnghĩa nguyênthuỷ. Tôi thì lại nhìn
từkép và cả từghép thànhhình từ những kháiniệm --
những yếutố dùngđể tạotừ mới dùcho chúng có nghĩariêng
nhưng trong một kếthợp mới nó mang một nộidung mới -- cùnglà
một họ Nguyễn và tên Thuý kia, nhưng những côgái mang cùng
tên đều chấpchứa nộidung khácnhau, và mỗi cô phảiđược
đốixử bìnhđẳng nhưnhau.
Ðồngý
với anh và đâylà một chuyệnnghiêmchỉnh, khi thihành thì
chỉcó một cơquan quyềnlực kiểunhư Hànlâmviện ChữViệt
mới đủ thẩmquyền vạchđịnh chínhsách cảicách
tiếngViệt mới sẽ được thựchiện nhưthếnào. Bàiviết
của tôi, của anh, hoặc của bấtcứai cũngchỉlà những ýkiến
đónggóp màthôi. Nhưng ta khôngthể chỉ biết ngồiđợi làm
xong một luậnán toànhảo rồi mới côngbố thì cólẽ quá chậm
và quá muộn. Và chodù nghiêncứu và luậnán của chúngta có
hoànhảo đimấy thì cũng cóngười nhìnthấy cáikhônghoànhảo
trongđấy. Ởđây câunói "tri túc tiện túc, đãi túc, hàthời
túc?" của Khổng Phu Tử chắc thíchhợp. Có ýkiến gì thì
cứviệc lêntiếng. Có kẻ chẳngbiếtgì lại lên mặt dạy
đời, mình dạigì mà cứ làmthinh chịu thiệtthòi?
Cảicách
Việtngữ là côngtrình chung của mọingười, chẳngphải là
của riêngai. Chỉcần chấpnhận cáitiềnđề là "cáchviết
TiếngViệt hiệnđại cần cảicách" là đủ, là mọingười
ai quantâm đến vấnđề là cóthể gópý,
còn cảicách thếnào, làmsao để cảicách thì cáiđó
hạhồiphângiải. Chắcchắn chúngta sẽ tìmra một giảipháp
thíchhợp được đasốngười chấpnhận. " Một cây
làmchẳng nên non, ba cây chụmlại thành hònnúi cao."
Ngàynay
mạnglưới thôngtin chophép ta làm chuyện nầy. Viết tớiđâu
là cholên mạng tớiđó. Khôngthể lấycớ đợi làmnghiêncứu
xemxét mọi khiácạnh của vấnđề rồi mới lêntiếng thì
chậmquá. Nội chuyện anh bỏtiềnra insách, babốn tháng sau đứacon
tinhthần của anh mới thànhhình, lúcđó vấnđề đã
nguộilạnh, và lạicòn vấnđề ngườiViệt chúngta mấyai
chịu bỏtiềnra để nghiêncứu ýkiến của một kẻ họ xemlà
dướitay mình. Chắc anh khôngtin cáilý là ngườiViệtmình
chằngai chịu phục ai, ai cũng muốn làmcha làmchú làmthầy ngườikhác
hết. Nói khôngnghe thì cảvúlấpmiệngem.
Thânchào.
dchph
BÀIHAI
Kínhgởi
Ông Ðáng:
Nay
nhân có Ông Lê Bắc lại gópý, tôi cũng tiệnthể bànvề ýkiến
của ông Bắc và bànthêm về mộtvài ýkiến của ông mà tôi
đã bỏsót trong thư trước.
Trướchết
về chuyện ông nêura cáchdùng từng từđơn cho phùhợp với
quiluật của các thểloại thơ của Việtnam. Theo thiểný thì
trong nghệthuật hoặc thica, tôi nghĩlà khôngcó vấnđề gì
cả, ai thích viếtrời thì viết, còn ai thích viết dínhliền
thì cũng khôngsao, đọclên vẫn đúng quiluật, tự bảnchất
nó đasỗ từ vẫn đivớinhau thànhcặp. Ðây chỉlà hìnhthức,
mình cũng chảnên buộcmình vào cáihìnhthức đó, nghĩalà
từngchữ một phải ănkhớp vào cáikhuôn đãđược đúc sẵn.
Ðồngý với ông là do ảnhhưởng của tiếngHán ngàyxưa, mỗi
chữHán phươngthể mang một âmthanh và ýnghĩa riêng của nó
mà chữViệt chúngta chịu ảnhhưởng rồi viếtthành chữrời
một (Chữ Ðạihàn viếtthành từng nhóm.) Ðiềunầy rất rõràng
mà lắm người cứ khưkhư bảo cái đó là quốchồnquốctuý,
bỏ khôngđược.
Về
chuyện quyước f- thành phi-, s- thành sự-... tôi đồngý với
anh là nếu mình cảicách kiểunầy chẳngqua lại là một thứ
quyước mới như ông nêura là quyước tốcký chẳnghạn. Tôi
nêu những thídụ tửngtượng nầy ra chẳngqua là để minhhoạ
ýtưởng cáitínhcách ngữtố của những yếutố đó, để phảnbác
lại ýtưởng của mộtsố nhàngữhọc phươngTây cứ nhìn cáchviết
của ta ngàynay rồi phán ngay một câu là tiếngViệt là tiếng
"đơnlập" (isolated language -- với hàmý là mình chỉbiết
ghép chữ lại vớinhau đê tạo từ và tạo câu, chứ khôngcó
hìnhthức biếnthể. Và họ nóixỏ đấy vì với họ ngônngữ
"đơnlập" la ngônngữ sơkhai.)
Về
chuyện ông địnhnghĩa là tiếngViệt có tínhđaâmtiết là
trong tiếngnói, còn về mặthìnhthức là nó đơnâmtiết vì mình
viếtrờira. Thì cách địnhnghĩa của anh là một cách, vì khi
ta bànluận vấnđề gì cũng cần thoảthuận về ýnghĩa những
kháiniệm mà ta sẽ bànthảo tới. Chuyện nầy chẳngcógì mâuthuẩn
với việc chấpnhận quanđiểm là tiếngViệt là một ngônngữ
đâmtiết. (Ông Lê Bắc cũng mặcnhiên thừanhận tính đaâmtiết
của tiếngViệt, là tiếngViệt có những từ nên viết
dínhliềnnahu, chỉ tại mình khôngbiết viết đúng và chưa xácđịnh
đúng là chữ nào nên viếtdính lạivớinhau để biểuthị từ
màthôi. Tôi cũng vậy.)
Còn
cáikháiniệm "hoàâm" của ông nếu ông địnhnghĩa thếthì nó là nhưthế, chớ theo tôi biết thì trong ngôngữhọc
ngườita xem những phântích như ông trìnhbày là "bánnguyênâm" w
(u), j (i)... w- và j- là mộtphần của của cáivần đisau.
Cònchuyện ông bị chấtvấn về tínhchínhxác của lậpluận "khôngcó ngônngữ nào trênthếgiới ngàynay là
ngônngữ đơnâmtiết cả." Ông đã bị cáinhãn "giáosư"
ngườita hù rồi nên cứng miệng. Ðâucầngì (và chẳngai làm
vậy cả) phải nghiêncứu
hết tấtcả các tiếngnói trênthếgiới (trườnghợp thấycây
và chẳng thấy rừng) mới cóthể đưara kếtluận đó! Trong
tiếngnói loàingười như ngữâmhọc đã cho ta thấy thì miệngmồn
ngườita chỉcó mộtsố cách phátâm về phụâm (P) d, f,
h.... và mộtsố giớihạn về nguyênâm (N) a, u, i... nếu
ta kếthợp tấtcả những khảnăng như N, P+N, N+P, P+N+P, hoặc
thêm PP và ÂÂ (chẳnghạn như kiểu -uy-, -uô-, -ươ- trong tiếngViệt)
vào trong những kếthợp
nầy để tạothành từvựng đơnâm thì
tổngcộng một ngônngữ chỉ thuần có đơnâm thì từvựng của
ngônngữ đó sẽ rất nghèonàn và thôsơ, và dântộc của xứ
đó phảilà đangsống trên một hònđảo nàođó hoặc là nơi
mà chưa có ngườingoài đặtchânđến, thì nó là một trườnghợp
lệbiệt đểdànhcho các nhàngữhọc phươngTây mangra làm đồsưutập
quíhiếm. Thêmvàođó, chỉvới nội sựdunhập những kháiniệm
mới ngàynay của khoahọc vitính và thôngtin thì những chữ như
internet, website, computer, database, forum, software, memory,
megabytes... sẽ biến ngônngữ đó sang ngônngữ đaâmtiết mất
rồi!
Về
chuyện Ông Lê Bắc bắtbẻ cáchviết trong câu "tri túc
tiệnúc, đãi túc, hàthời túc?" thì đó chẳngqua là lỗi
"typo" chínhtả, khi tôi cắtdán láthư trên để
"post", khônghiểusao "tiện túc" nó thành
"tiệnúc" và tôi bỏsót không bắt được khi đọclại.
Ðúngra thì chỉ có hai chữ "hà thời" là nên viết dínhlại,
vì hai chữ nầy thường đicặp vớinhau để chỉ kháiniệm
"baogiờ" (À, câu nầy tôi tin là của Khổng Tử, chứ
khôngphải của Nguyễn Công Trứ. Các vị họcgiả HánNôm của
Việthọc có ýkiến gìkhông?). Tiệnđây xin lạmbànthêm,
trong tiếngViệt mình, nhiều châmngôn, thànhngữ, phươngngôn
v.v... mang gốcHán, dùng lâu rồi mình cứ tưởng của riêngmình.
Chẳnghạn như câu "Mười năm trồng cây, trăm năm trồng
người" được một bác nóira, và bác đó là vịgiatrưởng
trongnhà, nóiđâulàđúngđó, nên nó trởthành lờivàngthướcngọc,
thếlà cảnhàta cứ khưchư bảo cái câu nầy là do bác nóira,
khôngthểnào có gốcHán được!) Và dĩnhiên, trong cáchviết
của tôi, nếu ai bớirơmtìmkim thì sẽ còn bắt được những
lỗi tươngtự, nhưng dphần là lỗi chínhtả, thídụ như tôi
viết "thủkiệu" chẳnghạn. Xin hiểucho tôi cũng đang
tậptành viếtvăn thửnghiệm, cũng bănkhoăn có nên vết dínhliền
hết những kháiniệm đa âmtiết không. Ông có quitắc viết của
ông, thì dĩnhiên ông viết đúnghơn nếu cái quitắc ông đưara
đaphần là dựavào cáchviết gạchnối trướcđây.
Ngàynay
những kháiniệm mới xuấthiện và trởthành phổbiển trong
nhiều lãnhvực, nhấtlà trong ngànhtinhọc, và được sửdụng
không ít, thídụ như: trangnhà, trangmạng, vitính, khodữliệu,
dĩacứng, v.v... chúng là những kháiniệm mới chúngta nên nênxem
chúng là từghép, dù cắt chúng ra thành từng âmtiết nhỏhơn,
bảnthân chúng đã hàmchứa một nộidung mới. Khi ápdụng
vào cáchviết dínhliền mới, ta khôngnên ngầnngại viếtsít
vàonhau. Còn cái câu "tri túc" kháxưa, nhiều kháiniệm
đốivới tiếngHán hiệnđại nên đượcxemlà từghép thì
khi bănkhoăn không biết nên viết nhuthếnào chođúng thì cũng
chẳngcó gìlạ -- nhấtlà tôi lại chủtrương nên viết dínhliền
những thànhngữ, thídụ như "tiềnrừngbạcbể", 'hằhàsasố"
v.v...
Ngaycả
trong tiếngAnh những từngữ mới như " webpage, website,
homepage, frontpage, harddisk, databank... " vì chúng mớimẻ nên
vẫncòn cóngười viếtrời thành "home page, web site...... Tôi
tiênđoán là khuynhhướng viết dínhliền lại vớinhau trong tiếngAnh
sẽ thắngthế vì khuynhhướng viếtliền những từghép
(compound words) rất mạnh trong tiếngAnh, khôngnói thì ai cũngrõ,
phảnảnh đầuóc kháiquát hoá rấtcao của người phươngTây.
Có người nói chữViệt ta viết nhưvậy 60 chục nămnay, từ
NamchíBắc, có ai hiểulầm ai đâu. Dĩnhiên khi ta vào rừng thì
ta thấy cây, cây nầy khác với cây kia, kểcả vào rừng tre
rừng trúc. Ta nhậndiện rõ từng câytre, phảnảnh rõràng
trong tâmthức thếhệ sang Mỹ đầutiên của chúngta nhớ khómtre
đầulàng khácvới khómtre ngoàingõ. Thếhệ conem Vệtnam lớnlên
ở
Mỹ thutnhận nền giáodục Tâyphương thì tre nào cũng là tre,
là "bamboo", chứ khôngphảilà do "bam" và
"boo" tạothành, tómlại chúng thấy đólà một đámrừng,
khôngphải là từng cây một. Chữ viếtliền, cứ chịukhó
suynghĩ xahơn mộtchút, sẽ giúpcho đầuóc conem mình suytư mộtcách trừutượng
hơn, nhanhhơn và hiệuquả hơn, và cái toànthể khôngnhấtthiết
là tổngsố của những cáilẻ. Khôngphải ta bắtchước cáchviết
"therefore", "nonetheless", "although" ... của
chữAnh màlà
ta bắtchước cái đầuóc trừutượnghoá và tưduy của ngườiTâyphương,
vì đấylà nềntảng của tưduy và của khoahọc, và nếuthêm vào đấy ta triểnkhai
phổthônghoá sựhiểubiết về HánNôm, cáicách viếttời của
từng chữkhối phươnghtể vẫn cònđấy cho ta nângniu đánhbóng,
làmthơ làmphú, mặctình mà mangra
từngchữ tánhươutánvượn.
Còn
chuyện Ông Lê Bắc nóichuyện tiếngAnh ngàynay nhiều người
viết sai vănphạm thì tôi khôngdám lạmbàn. Thằng con nhỏ sáu
tuổi của tôi ưa nói "he don't, she don't" mà tôi chẳngdám
sửa. Vănphạm chẳngqua là những quyluật ngườita rútra từ
thựcthể tiếngnói đã thànhhình. Ngàyxưa, tôi nhớ khi tôi mới
học tiếngAnh ở Việnam, baogiờ cũng học vănphạm trước. Cáilềlối cổhủ
nầy đã làmquèquặc tiếngAnh của tôi. Thế mới thấy những
"người bình dân" thếmà hay, nóiđược câu "tri
túc" rồi theosauđó có nói thêm "mẹ cha nó",
"đồ dịch vật", "con mẻ", "thằng
cha", "cố nội" chẳng phải bănkhoăn gì tính đơn
hay đaâmtiết của lời họ nói. Họ nói và họ cólẽ họ cũng
chẳng cần viết, cái đámđông quầnchúng đó thuộcloại nầy
khôngđángngại trong cuộcvậnđộng cảicách chữViệt chútnàohết.
Chỉ sợ là sợ cáiđám tríthức nửamùa, tưởng mình là cáilỗrốn
của vũtrụ, cáigì không hợpý mình là sai, sẽ lợidụng đámđông
quầnchúng đó đưa họ ra hù những người yếubóngvía. Cái
danhnghĩa đạiđasố quầnchúng đãđược nhànước Việtnam
mangra sửdụng từlâu, nhưng đốivới những người đang nắmquyềnlực
thì cái ýkiến của quầnchúng đó cónghĩagìđâu. Nhữnggì
nhànước cho là đúng thì họ làm.
Sỡdĩ
tôi dàidòng về chuyện đámđông, vì quảđúng theo lời Ông
Lê Bắc, cái khó là sự chốngđống của đámđông. Nhưng chúngta
phải nhìnthấy rằng cái vaitrò của ngườilàmvănhoá là chỉ
cho ngườita thấy conđườngđi, vạchra đườngđinướcbước
để đạtđến mụcđích chung có lợi cho nướcnhà, thì nếu
thờivận đến và maymắn có ngườitríthức nàođó nhậnđịnh
rõ được vấnđề cấpbách trong việc cảicách cáchviết tiếngViệt
nầy lên nắm chínhquyền ở Việtnam và ápdụng sựcảicách
cáchviết tiếngViệt mới, thì dùcho những có bị ai tặng
cho ba cái nón cối thì có theo "chủnghĩa cảicách chữViệt"
thì cũng hảdạ. Ngàyxưa khi Tần Thỉ-hoàng chấpnhận sự cảicách
văntự do Lý Tư đưara và đã thựchiện cảitổ chữHán từ
hìnhthức chữTriện sang kiểu chữviết vẫncòn tồntại đến
bâygiờ, cóbiếtbao sĩphu thờibấygiờ vì chốngđối đã rụngđầu.
Thếmàhay, nếu không làm vậy, giờđây nước Tàu cólẽ đã
bị chiabaxẻbảy chẳng khácgì những nước Âuchâu bâygiờ.
Trong trườnghợp nói cảicách chữviết khóthựchiện thì thựcsự
chẳngphải là khó. Có ýthức và quyềnlực là thựchiện được.
Cái
quốchồn quốctuý là do ta tạora, của ngườita mà lấydùng
lâungày rồi thành của riêngmình nếu nó hay thì giữ, thì cái
quốchồn quốctuý đó đángđược gìngiữ vậy. Quốcngữ phảinóilà
chỉmới còn giaiđoạn đangpháttriển, chưađược ổncố như
tiếngAnh, và vì tuổi nó già hơn Quốcngữ ta, nói mộtđàng
viết mộtnẻo, khó cóthể cảicách được, nhưng chữViệt vẫn
là thứchữ đangpháttriển, và nếu ta cứkhưkhư ômlấy cáisai
(phủnhận tínhđaâmtiết của nó) mà làm quốctuý thì những
câynon tươnglai lại cứ núp dưới những bóngcây đạithụ,
thì cũng sống nhưng rõràng sống vậtvờ khôngpháttriển. Cứgiữ
cáicách tưduy hiệntại củata, thứgì cũng cụthếhoá, có chết
conmèođen nhàai đâu mà bàn với cải, sửa với đổi, cải với
cách? Hồi cuối thếkỷ 19 nếu ngườiNhật cũng nghĩ nhưvậy
thì nướcNhật ngàynay đã khác -- xét về mặt ngônngữ,
làmgì chúngta trong tiếngViệt có những từ như cộnghoà, dânchủ,
tíchcực, tiêucực, chínhphủ...
Cáilợiđiểm
Latinhoá quárõrệt nếu chúngta không triệtđể triểnkhai nhữngưuđiểm
tíchcực của thứ chữviết nầy thì thậtlà uổng. Trongkhiđó,
chữAnh là thứ văntự đã ổncố, đã đạtđến tính pháttriển
cao, là ngônngữ kỹthuật tinhọc duynhất trêntoàncầu, không
học tiếngAnh là sẽ bị thiệtthòi, thànhthử ai cũng đuanhau
mà học. Vaitrò của tiếngViệt mình làmsao sosánhđược với
thứ ngônngữ nầy. Khôngphải nói vậy là do mặccảm tựti
hay duyTâyhọc, màlà để nhấnmạnh đến những khuyếtđiểm
của chữviết hiệntại của nướcnhà mà nhanhchóng sửađổi.
Cólẽ nhânlúc ngườita còn chưa đểý tới ta maumau cảicách
theo chiềuhướng đúng thì vềsau có trởthành mộtxứ Nhậtbản
thứhai, ta sẽ lạiđược ngườita chiêmngưỡng cáihay cáiđúng
đó. ChữHán chữNhật dù khómấy thì vẫncó người học. Ðây
chẳngphải là lúc chúngta nên tạo điềukiện để cáchviết
mới của chúngta pháttriển theo một chiềuhướng khoahọc và
hợplý haysao? Thờicơ đãđến, liênmạng toàncầu là cáivũkhí
vạnnăng sẽ làmthayđổi tấtcả. Dùmuốndùkhông thì đólà
conđường phải đi.
Trântrọng.
dchph
Xinmời
xemtiếp
|