Khámphá Mới
về Dịchlý & Ngũhành
Nguyễn Cường
Trởvề
Trangtrước | Xemtiếp trangkế
III.- Khámphá mới về Dịchlý.
a) Ýnghĩa và đặctính lýhóa của BátQuái.
Như đã nóitrên, vì kiếnthức về khoahọc còn rất nôngcạn của các nhàthôngthái cáchđây cả mấy ngàn năm, nên trongviệc đặttên và diễndịch Y¨nghĩa BátQuái đã bị ảnhhưởng rấtnhiều, nhấtlà dobởi thuyết Ngũhành. Tuy tôntrọng têngọi nguyênthủy của BátQuái, nhưng ngườiviết xin dùng những từ thuộc 8 "Hành Mới" (tính lý hóa) để bổtúc cho mộtsố quái, theo cách xếpđặt nhưsau:
BátQuái: Thiên Trạch Hỏa Lôi Phong Thủy Sơn Ðịa
8 Hành : Sóng Khí Nhiệt Âm Mộc Thủy Kim Thổ
Hìnhvẽ số 3
Ngoài những Quái có "Hành" quenthuộc, còn mộtsố các "Hành Mới" khác sẽ được giảithích sau:
Sơn thuộc hành Kim: Kim theo nghĩahẹp là kimloại do từ các quặngmỏ ở trên vùngnúi hay caonguyên. Nghĩarộng là cho các vậtliệu có chung đặctính cứngrắn, bởivì cấutạo của núiđồi đasố cũnglàdo đất đá cứng nên mới vươncao được. Nóitheo hìnhtượnghọc cho dễhiểu, thì ngàynay các caoốc chọctrời cóthể ví nhưlà núi (hay Sơn theo khoa PhongThủy), vì phải dùng đặctính cứngrắn của bêtông cốtsắt mới chịuđược. Ðây cũng chothấy sailầm của của những nhàthôngthái khi muốn "épduyên" BátQuái cho Ngũhành. Chẳng là vì Thổ, Thủy, Mộc và Hỏa chiếm hết 6 quái rồi, nên phải dùng hành Kim thuộcvề nhóm hữuhình, cho cả Thiên và Trạch thuộc nhóm vôhình.
Lôi theo nghĩahẹp là sấmsét, nhưng nghĩarộng là chấnđộng hay cụthể hơn là âmthanh. cóthể là do các nhàthôngthái dùng hìnhtượnghọc, mượn hìnhảnh của "sấmsét" cho dễ hiễu. Diễndịch sailầm nếucó của lớp hậusinh vềsau là khôngchịu tìmhiểu, hoặcgiả có hiểu thì cũnglàmột thiểusố rất ít. Ngay Ðức Khổng Tử gần cuối đời cũng phải thúnhận là còn hiểu sailầm về Dịch (5). Ðiều chắcchắn là thờiđó, kháiniệm khoahọc về "Aâmthanh" còn rấtlà trừutượng và mơhồ.
Hỏa nghĩahẹp là lửa, nghĩarộng là A¨nhsáng hay nhiệtnăng, theo cáchgiảithích tươngtự nhưtrên.
Trạch là Quái hoàntoàn bị hiểunhầm nhiềunhất vì đasố các sách về Dịch cholà tượng của "aohồ". Cáisai thấy rõ vì Trạch thuộc nhóm Dương vôhình, mà aohồ lại là vật thấyđược thuộc nhóm hữuhình. Hơn nữa, điềuvôlý là khi nóiđến aohồ thì phảicó nước hay liênhệ đến hành "Thủy" trongđó. Mộtsố sách sau này dùng tượng "hơinước" (4) cólý hơn mộtchút, nhưng vẫn chưađạt ý. Ðúngra, Trạch ámchỉ tổngquát các loại chất "Khí" có trong thiênnhiên, mà lúcbấygiờ các nhàthôngthái chưa biếtgì cả, ngoạitrừ khôngkhí để thở và các loại "Hơi" chora mùi cóthể ngửi được. Nên nhớ, khi gọilà Trạch với nghĩa tổngquát ámchỉ cái "cửakhẩu" hay chỗ "bị lỏmxuống", thì các nhàthôngthái cũng đãcó kháiniệm mơhồ về một khoảngtrống có chứa vậtthể vôhình vôsắc nàođó.
Thiên ýnghĩa là "Trời", biểutượng cho cáigì siêunhiên vôhình vượt qua mọi sựhiểubiết của conngười vào thờibấygiờ, tuy các nhàthôngthái thỉnhthoảng vẫn cảmnhậnđược "Có cáigì đó"ù ảnhhưởng khôngít tới thểxác của họ. "Sóng" là hành của "Thiên", baogồm tấtcả mọi loại sóng từtrường có trong khônggian, các tiaphóngxạ, tiatửngoại, hay các loại "Siêu A¨nhsáng" có vậntốc nhanh hơn A¨nhsáng bìnhthường (sẽ được chứngminh bằng lýthuyết ở cuối bàiviết) mà trìnhđộ khoahọc của conngười cho đếnnay vẫn chưa tìmra được.
Nhìnvào đặctính lýhóa của TứQuái thuộc nhóm dương, rõràng là Phục Hy hay nhàthôngthái nàođó khi phátminh ra BátQuái, đã vôtình đưara những kháiniệm rất cơbản về sựtraođổi giữa Vậtchất và nănglượng trong khoa Vậtlýhọc hiệnđại! Chỉ tiếcrằng các họcgiả Trunghoa vềsau vì khônghiểu hay vì muốn giữbímật làmcủa riêng, nên hậuquả là cáihọc chânchính về Dịch đã bị thấttruyền. Trình Dy (2), một họcgiả nổitiếng đời NhàTống đã nói như vậy, cáchđây gần cả ngàn năm. Theo sách thamkhảo (4), hai bộ "LiênSơn" và "QuyTàng" nói về Dịch đã bị mấtluôn khôngbiết nộidung như thếnào, chỉcòn bộ "Chu Dịch" chuyên về 64 quẻ thuộc khoa Bốcphệ hay Bóitoán!
b) Phươngvị của BátQuái
Như đã nói trong phần trước, ưuđiểm độcđáo của thuyết Ngũhành là đưara kháiniệm về luật SinhKhắc, mà ứngdụng khởithủy chínhlà dùng phươnghướng để định vịtrí tiêuchuẩn. Như trong hìnhvẽ số 1 trên, chúngta đã thấy thuyết Ngũhành có vấnnạn, vì chỉ có 5 thànhphần cho 4 hướng chínhlà ÐôngTâyNamBắc, nên đãphải nhờđến BátQuái để rồi từđó lại chora hai "phósản" là TiênThiên và HậuThiên BátQuái, dẫn dắt hậusinh vào chỗbếtắc!
Hìnhvẽ Số 4
Hãy tạm quên Ngũhành, TiênThiên và Hậu Thiên, để trởvề với lýthuyết cơbản của Dịchlý. Muốn định vịtrí tiêuchuẩn phươnghướng cho BátQuái, thì cách haynhất là truy nguyên từ nguồngốc sinhra nó tức là "Tứ Tượng" gồm Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương, và Thái Âm. Ơûđây ngườiviết muốn nhấn mạnh đến sự trùnghợp rõ rệt giữa "Tứ Tượng" cho "Bốn Phương" chính, và "BátQuái" cho "Tám Hướng" kểcả 4 hướng phụ.
Bắtđầu bằng 4 hướng chính dùng "Tứ Tượng" như hìnhvẽ số 4 trên, chothấyngay tên gọilà Tháidương biểutượng cho mặttrời hay A¨nhsáng thuộcvề banngày, phải nằm ở hướngÐông là hướng mặttrời mọc. Ngượclại cho Thái Âm, tượng cho mặt Trăng hay ban đêm, phải ở hướngTây là lúc mặttrời lặn. Cònlại suyra Thiếu Dương, hay Dương ít nghĩalà Âm phải nhiều, ámchỉ cáilạnh nhiềuhơn nên đóng ở phươngBắc, và dođó ngượclại Thiếu Âm chỉ cái nóng nhiềuhơn, nên phải ở về vịtrí phươngNam, hướng về đườngxíchđạo.
Bốnphương chính đã được định vịtrí tiêuchuẩn đúng rồi, thì trong tiếntrình chora BátQuái, 4 hướng chính đó sẽ trởthành "Thiên" dành cho hướngÐông, "Ðịa" hướngTây, "Thủy" hướngBắc, và "Hỏa" ở hướngNam. Sau khi bốnphương chính được địnhvị cho bốn quái rồi, các quái cònlại theo thứtự suyra cho bốn hưống phụ.
c) VòngSinhKhắc của BátQuái
Vòngtươngsinh của BátQuái khởiđầu bằng hệluận tầmthường sauđây của Lão-Tử giảithích về nguồngốc của vũtrụ, mà khoahọc ngàynay cũng đưara giảthuyết gần giốngnhư vậy! Ðó là: "Ðạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinhra Vạnvật". Ðâylà Lão-Tử muốn nói, Tháicực sinhra LưỡngNghi hay cả vũtrụ nên gọilà Thiên (Trời, số Một theo thứtự của thuyết Tamtài). Thiên sinhra Ðịa (số 2) ámchỉ các tinhtú hay tráiđất. Ðất sinhra vạnvật baogồm Nhân, thứtự số 3, hay nghĩarộng hơn là hào thứ ba sinhra BátQuái, baogồm cả vạnvật trên tráiđất. Vậy thì "Ðịa" hay tráiđất sinhra vạnvật theođúng diễntiến thứtự của luật BátQuái tươngsinh (mũi tên trong hìnhvẽ số 3), và khoahọc hiệnđại đã chứngminh mộtcách tươngtự rõràng những diễntiến nhưsau:
Thiên Sinh Ðịa Ðầu tiên, trời hay vũtrụ sinhra các hànhtinh kểcả tráiđất là chuyện đươngnhiên, khôngcógì khó hiểu.
Ðịa Sinh Sơn (hành Kim) Như đã giảithích ở trên, Sơn thuộc hành Kim: Tráiđất lúc mới vừa thànhhình là một khối cầulửa rất nóng, khi bắtđầu nguội dần thì mặt đất bị corút lại và tạothành lồilõm. Chỗlồi là núi, lõm là thunglũng hay đồngbằng. Vậy Sơn do từ Ðịa mà sinhra là điều hợp lý, khôngcòn gì phải thắcmắc.
Sơn (hành Kim) Sinh Thủy: Sơn là núi trên caonguyên lạnh nên là nơi tíchlũy băngtuyết. Tuyết tan thành nước chảyxuống đồngbằng thành sông, và cuốicùng là ra biển. Dù những vùng khôngcó nhiều tuyết thì nước mưa trên cao cũng chảyxuống thấp làmthành sông hay suối. Luật khoahọc thiênnhiên đã được chứng minh, tấtcả các consông đềucó nguồn phátxuất từ các vùng caonguyên. Luật này còn nhấn mạnh đến lýtính của Chất Lỏng là luôn luôn chảy từ cao xuống thấp. Có sách theo thuyết Ngũhành đã giảithích vì "Kim Khí" lạnh nên hơi đọnglại mà sinhra nước. Giảithích nhưvậy rấtlà gượngép và thiếusót, vì hơinước cũng đọnglại trên câycỏ đểchora nước! Nguyênnhân cóthể là do bị các "NgụyThư" đánhlừa, hoặc các hậusinh Nhohọc thời XuânThu muốn giấunghề "Trị Thủy" của Vua Vũ(?)
Thủy Sinh Phong (hành Mộc): Nước nuôi dưỡng sinhra cây cỏ, nhưng đồngthời cũng chora hơinước tạothành gio.ù Gió chỉ chothấy hiệuquả khi gặp vậtcản để sinhra chuyểnđộng. Và ngượclại, nếu vật chuyểnđộng thì lại chora gió! Dođo,ù Quái Phong ởđây ámchỉ cả hai nghĩa thựctế và trừutượng. Vừa thuộc hành Mộc là câycỏ thuộcvề quái cuốicùng ở biêngiới của nhóm Âm hữuhình, nhưng đồngthời cũng chora gió, đóngvaitrò trunggian chuyểntiếp đến quái "Lôi" thuộc nhóm Dương vôhình. Ðây mới thấy cái ẩný của các nhàthôngthái, đã không gọi quái "Phong" là quái "Mộc".
Phong Sinh Lôi (Aâmthanh) Chínhlà biêngiới của sự chuyểntiếp từ hữuhình qua vôhình. Gió gặp vậtcản tạora chấnđộng hay rungđộng, rồi từ sựrungđộng lại phátsinhra âmthanh. Dựavào nguyêntắc trên mà các nhàthôngthái thờicổđại bên Trunghoa đã phátminh ra câysáo, một loại nhạckhí cổxưanhất trên thế giới vẫncòn dùngcho tới ngàynay. Nhắclại ởđây, nhàthôngthái đãphải dùng đến hìnhtượng cụthể là "sấmsét" (hay Lôi) cho dễhiểu vì ai cũng thấyđược. Nên hiểurằng "Lôi" ởđây không chỉ cónghĩa là sấmsét, mà còn cónghĩa tổngquát hơn là chấnđộng. Ðiều chắcchắn là Nếukhôngcó hơinước tạora gió thì khôngcó mây hay mưa, và nếu khôngcó mây bão thì cũng khôngcó sấmsét!
Lôi Sinh Hỏa Chấnđộng mạnh thì dể sinhra sựcọsát và chora Nhiệt. Nhiệt tíchlũy nhiều thì phátHỏa, và đólà nguyêntắc để tạora lửa không thayđổi từxưa đếnnay. Nhân tớiđây, cũng nên nhắclại thuyết Ngũhành nói "Mộc sinh Hỏa", với lời giảithích gỗ cháy chora lửa, là không hoàntoàn đúng! Gỗ không tựnhiên mà cháy nếu khôngcó trước mồilửa, nghĩalà tựnó không sinhra lửa. Thídụ như trong thiênnhiên, những vụ cháy rừng là do sétđánh, đúngnghĩa của "Lôi" màra, và các hỏadiệmsơn do chuyểnđộng xungsát của các tầng nhamthạch, baogiờ cũng bắtđầu phunlửa bằng các cơn địachấn đitrước. Còn về mặt nhântạo thì ngay cả dùng cáibậtlửa, cũng cần phảicó tácđộng banđầu do sựđánhdiêm hay cọsát mạnh vào viênđálửa.
Ngoàira, do hai quái trên hoàntoàn nằm trong vùng vôhình thuộc phạmvi tinhthần, nên còn đượchiểu theo nghĩabóng. Thídụ như âmnhạc cóthể làmcho conngười cảmthấy kíchđộng mạnh lên, phấnkhởi nhảymúa tưngbừng. Hoặclà, khi hai quyềnlợi tranh dành đụngchạm mạnh, thì tấtnhiên phải xảyra cảnh chiếntranh máulửa!.
Trởvề
Trangtrước | Xemtiếp trangkế
|