Mộtvài suynghĩ về nguồngốc dânViệt
dchph
Xinmời xem vài ýkiến phảnhồi đănglại trên Diễnđàn tiếngViệt
tại:
http://vny2k.net/ZiendanTiengViet/viewtopic.asp?forumid=21&id=637
Bạnhiền: Gầnđây, bạn thường gởi email cho bạnbè, trongđó có tôi, những
bàiviết về Tàu, về lịchsử Trunghoa, về nguồngốc dântộcViệtnam, về những vấnđề
gaycấn trong mối quanhệ Việtnam và Trungquốc hiệnnay. Có lần bạn xinlỗi tôi và
D. trước với ýnghĩ là erằng lờilẽ của bạn sẽ làm hai đứa tôi phậtlòng vì bạn
cholà trong đámbạn cólẽ hai đứa tôi có máu Tàu trongngười nhiềunhất. Tôi nhớlà
đã trảlời với bạn là bạn chẳngcần phải xinlỗi ai hết, chúngta đềulà
ngườiViệtnam. Tôi tuylà ngườiViệt gốc "Bông" nhưng khôngchừng tôi lạilà Việtnam
hơn rấtnhiều người, kểcả những ông mang họ Nguyễn và họ Lê nàođó... là những họ
mà ngườita thường cholà đasố ngườiViệtnam mớicó. Nói nhưvậy làvì có những ông
trởthành côngdân nước khác mà quênmẹ nó mất là mình là người gốcViệt. Cũng trong
cáchnhìn nầy, tôi là ngườiViệtnam nhưng tôi lại khôngquên tôi có gốcTàu
(khôngphải là mình thường chê ngườiMỹ datrắng tứxứ ở Mỹ là sao họ lại quênmẹ nó
mất tổtiên họ là ai?). Cây có cội nước có nguồn màlị (câu nầy là của Tàu à nha:
"Thụ hữu căn thuỷ hữu nguyên")! Bạn cứ xem những điều tôi sắp viết rađây là
chuyện tưvãn, tràdưtửuhậu, đọc rồi quênđi, chớ quantrọnghoá vấnđề quácở,
câuchuyện sẽ trởnên nặngnề. Cólẽ khôngmấyai sẽ kiênnhẫn đọc và đồngý với những
điều tôi sẽ nói, "biết rồi, khổ lắm, nói mãi", nhưng có những sựkiện mà nhiều
người khôngbiết hoặc tảnlờ đi. Thídụ, ngườiHán hiệnđại là một dântộc
hợpchủng. Tươngtự, ngườiViệt hiệnđại cũngcó nguồngốc hợpchủng. Tôi hyvọng là
giữa tôi và bạn có cùng "mẫusố chung" chodù "phụhệ có tửsố riêng". "Bầu ơi
thươnglấy bí cùng, tuylà khác giống nhưng chung một giàn" (chữ "bầu" là
tiếngTàu, chữ "bí" là tiếngViệt, nhưng cùnggốc cả!) Tôi sẽ lầnlượt
triểnkhai và trìnhbày ýkiến của tôi nhưng đây khôngphảilà nghiêncứu gì ráotrạo
mà chỉlà nghĩsaoviếtvậy, chẳng lớplang, là kếtquả mà tôi lượmlặt được trong
quátrình nghiêncứu và họchỏi, và vì tới tuổi thầntrí bắtđầu kémhẳnđi, tôi không
nhớđược nguồn tríchdẫn và những consố chínhxác cho những luậncứ hoặc địnhluận
nêura ởđây. Điều quantrọng đólà khôngphải tưởngtượng và bịađặt. Ởđây,
ngoài ngữtố "Hoa", như "ngườiHoa", "Hoakiều"... là từ để chỉ những người còn
mang bảnsắc Trunghoa dù tổtiên đã đến Việtnam đó babốn đời nhưng chưa hoàntoàn
hoànhập với ngườiViệt bảnxứ, kể luôncả "cácchú"(<~"kháchtrú" <~ "kháchgia"
<~ "Hakka"), tôi sẽ dùng cả từ "Tàu" rấtnhiều, là từ chúngta thườngdùng để
cáigì thuộcvề Trunghoa, vì tínhcách lịchsử của nó ("Tần" ~> "Tàu"? haylà
"ngườiTiều" ~> "ngườiTàu" ~> "nướcTàu" ~> "Tàu"?), chứ khôngcóý miệtthị
ai (?), và cóhaykhông thì tuỳvào ngữcảnh hay cáchnóichuyện của người sửdụng từ
nầy. Ngoạitrừ hai từ hàmý miệtthị là "Chệt" (sosánh "Chin" hay bínhâm hiệnđại
"Qín") và "baTàu" (điều thúvị là đây cũnglà một từ gốcHán, trong cổthư tiếngHán
gọilà "TamTần", để chỉ ba vùngđất mạn đôngnam (Quantrung) được sátnhập vào
nướcTần vềsau, và đó cũnglà cáchgọi nướcTần ngàyxưa của dân sống ở những vùng
khác trên đất Trunghoa!) từ "Tàu" đốivới tôi là một từ trunghoà, giốngnhư ta nói
"ở nhàTây ăn cơmTàu", "tràTàu", "gáiTàu", "vợTàu", "chaTàu mẹViệt", "Bác
hoạtđộng cáchmạng ở bênTàu", v.v... đều không mang nghĩa xấu. Trongkhiđó
danhxưng "Trungquốc" là một thựcthể chínhtrị-địalý (giốngnhư hầuhết cả thếgiới
ngàynay đều gọi Sàigòn là Thànhphố Hồ Chí Minh vậy, bạn cóthể không thích nhưng
đólà một sựthật lịchsử) thì dùngđể chỉ nướcTàu hiệnđại và ta khôngthể ápdụng
tênnước của xứ nầy rồi đồnghoá mọithứ liênhệ với nó là "nướcTàu" và "ngườiTàu"
đểrồi mangra ápdụng cho tấtcả những yếutố "Tàu" ở Việtnam. Dođó, Trungquốc,
chodù nó baohàm cả kháiniệm "Trungcộng", "nướcTàu", ýnghĩa của nó chỉ giớihạn ở
những cáchnói như "chuyênviên Trungquốc khaimỏ Bôxít", "hànghoá Trungquốc
trànngập thị trongnước", "dukhách Trungquốc đến Vịnh Hạlong tăngcao mỗinăm",
"haiphe Trungcộng và Quốcdânđảng bắttaynhau', "ghethuyền đánhcá Việtnam bị tàu
Trungcộng uyhiếp", v.v.. Giốngnhư ta phânbiệt trong giọngđiệu khi nóivề
ngườidađen ở Mỹ, thídụ, "tôi hãnhdiện là côngdân của nước Mỹ có mộtvị tổngthống
là ngườidađen" khácvới "mứcđộ phạmpháp của những tênlưumanh ngườidađen." Dođó để
tỏ sựnghiêmchỉnh ta khôngthể mỗikhi bàntán chuyện Việtnam và Trungquốc là
kèmtheo "Chệt" và "baTàu", xỏxiêng quênbẳng "bagai là cha máchqué, kỳđà là bố
kỳnhông". Tómlại, điều mà sốđông chấpnhận cũng chưachắc đólà sựthật lịchsử,
chớnên quơđủacảnắm "vú cả lấp miệng em", nhưvậy chỉ chothấy mình là người
thiếuhiểubiết. Bên Mỹ, mỗilần tôi cầm một tờbáo Việtnam lên, lướtqua mà bắt
đọcthấy đạiloại những từ trên là xếp chúng vào hạng lácải ngay. Riêng
bảnthân tôi, nói và đọcviết được tiếngTrung hiệnđại và đọcđược ítnhiều tiếngHán
cổđại làdo tôi bắtđầu học chúng như một ngoạingữ trên đạihọc gần bamươi năm
trước, tôi vẫn tựxem mình khôngnhững là ngườiViệt sanhra và lớnlên trên đấtViệt
màcòn hãnhdiện tựhào là tôi nắm đủ tiếngViệt để viếtlách chútđỉnh từ năm 16 tuổi
với bàiviết đăng trên gần cả chục tạpchí như Khởihành, Văn, Vấnđề, v.v... và nay
đang nghiêncứu tiếngViệt và biênsoạn từđiển từnguyên tiếngViệt của những từ có
gốcHán, và ngaycả đềxướng việc cảitổ tiếngViệt, chodù bạn khôngthích nhưng
khôngthể phủnhận "tínhphithường" của sựkiện! Bạn đếnchơi nhàtôi thì biết đấy,
khôngcógì là "Tàu" hết phảikhông? Nếu tôi không máchbảo bạn, thì cólẽ bạn
khôngbiết và giờnầy khôngcần phải vòngvoTamquốc chi ởđây để ráng chứngminh tôi
là ngườiViệtnam hầu mongsao ngườikhác nhìn những điều tôi viết thấy cóvẻ
kháchquan (chứ khôngphải "kháchsáo") và nặngký ("quảđấmthôisơn") mộtchút. Nếu lờilẽ nầy do một ông Nguyễn nàođó viết thì ngườiđọc sẽ
bớtđi mộtít thiênkiến vì chưabaogiờ có ông "thuầntuý" Việtnam nào tựvỗngực đinhận bàcon xagần với anhTàu. Dođâu? Địnhkiến và thiênkiến. Điềunầy chỉ nóilên
tính thiểncận và nôngcạn của mộtsố người thiếuamhiểu vấnđề. Họcgiả nhàta cóthể
viếtsách nghiêncứu vănminh Hylạp và vănminh Lamã trànggiangđạihải rấtcó tầmvóc
nhưng khi đụngtới vấnđề nguồngốc ngườiViệt là cóchuyện, không ồchấy thì cũng
tháucấy, chụpmũ "baTàu" ngay. Bạn lênmạng google là tìm thấyngay những bàiviết
nựcmùi phânbiệt chủngtộc kiểu nhưvậy. Như tôi đã nói, máumủ Tàu trong
conngười tôi chỉcó khác với bạn ởchỗ là tổtiên tôi cóthể chỉ mới dicư sang
Việtnam đến Việtnam sau tổtiên của bạn đã rấtnhiều đời. Giònghọ P. nhàtôi còn
giữ giaphả nên tôi biếtchắc được nguồngốc của mình. Tổtiên của tôi làmquan dưới
triềuMinh cưtrú ở Tỉnh Phúckiến đã được saiphái đến đảo Hảinam cáchđây haimươi
đời khoảng 500 năm trước. Tới đời ôngcố tôi, vào khoảng đầu thếkỷ 20,
cólẽ dovì miếngcơmmanháo dònghọ
tôi đã dicư tới Việtnam bằng đườngbiển và địnhcư ở Tuyhoà, Phúyên. Còn những
chiphái cùng tông khác đã dicư và rãidài khôngít ra khắpnơi ở Việtnam, và
ngàynay, sangđến nước Mỹ và những nước khác. Một người cùng họ với tôi, nếu có
chữ lót là C. cùng vaivế, nhưvậy chắcchắn chúngtôi có bàcon xagần vớinhau. Thời
khángPháp loạnlạc, ôngnội tôi lại đưa giađình tảncư ra vùng Bồngsơn, Tỉnh
Bìnhđịnh, hoànhập vào thiểusố dân Hảinam đã đến trướcđó
cóthể bằng đườngbiển, và
đasố đều nói tiếngViệt sỏi như dânViệt. Sự phânbố ngườiTàu dicư đến Việtnam
rõràng là có nhiều ngãđường, phầnđông dânHảinam địnhcư ở vùng miềnTrung (Đànẵng,
Quinhơn, Tuyhoà...) nhiềunhất vì điềukiện địalý gầngũi thôngqua đườngbiển. Chồng
của một bàcô họ của tôi, nămnay đã trên 86 tuổi, ông kể là thời thanhniên thuở
đôimươi ông đã điđilạilại về Hảinam thườngxuyên và có vợ ở cả hai nơi (giốngnhư
mộtsố Việtkiều ở Mỹ về nước vậy, hihi)! Tôi nói dôngdài nhưvậy để cho bạn thấy
chỉ trong chitổ họ P. của tôi trên đấtViệt cólẽ đãcó sựhiệndiện của hàngngàn
người trởlên, rồi nay vì những biếncố lịchsử, lại dicư mộtlầnmữa sang nướcMỹ và các
nướckhác, mà hễlà họ P. dĩnhiên là từ Việtnam đến. Bạn lật sổ điệnthoại ra, in ở
bên Việtnam lẫn bênMỹ, là thấyngay nhiều tên mang họ của tôi có tênlót đisau như
P.C. (vai củatôi), hoặc P.T. (vai của ônggià tôi), P.G. (vai của con tôi),
chưakể các đờitrước và đờisau đó, v.v. Riêng ở SF, có khoảng bốn người trùngtên
với tôi. Nguồngốc vaivế nầy rất rõràng, dựavào một bàithơ Đường do ôngtổ đầutiên
khi mớiđến Hảinam đặtra, với tấtcả những người mang họ P. như tôi, nếu chaông
vẫncòn theođúng truyềnthống tổtiên đặt têncon với chữlót có lớplang, tôi
chắcchắn là họ có chung một ôngtổ với tôi. Dĩnhiên là nhiều tôngphái thuộc
dònghọ khác của ngườiTàu, cũngcó truyềnthống nầy. Tênhọ ngườiViệtnam nếu cũng
theo "trườngphái" nầy thì tôi đoán họ cũng có nguồngốc Tàu cậnđại hơn. Tôi tin
là nhiều ngườiViệtnam, nếu có giaphả hoặc còn nhớ lời ôngbà kểlại, thì cũng sẽcó câuchuyện tươngtự nhưtrên của tôi để kể cho mọingười nghe. Cứthế mà quynạp
nhânlên cấpsốnhân là gầnbằng dânsố "ngườiKinh" ở Việtnam hiệngiờ. Bạn
mang họ Huỳnh, là họ rất "Tiều" (Tàu?) xuấtphát từ miềnNam, cùnggốc với họ
"Hoàng" xuấtphát từ miềnBắc. Bạn cólẽ khôngbiết tổtiên mình có gốcTàu bởilẽ là
giònghọ nhàbạn đã Việthoá baonhiêu đời và vì tiênnhân không đểlại giaphả haylà
đã bịđánhmất. Tuy không ănxổiởthì và xuềxoà thựcsự như người trongNam của người
họ Võ (họ nầy được chọnra ởđây là để nhấnmạnh sựđốilập với họ Vũ thườngthường
là gốc Bắckỳ như cái cặp họ Huỳnh/Hoàng), nhưng tínhcách của bạn vẫnlà người
mangnặng rấtnhiều yếutố miềnNam cósaonóivậy, và cólẽ bạn khôngbiết họ Huỳnh
(cũngnhư họ Võ) lại có gốc Triềuchâu lậpnghiệp ở miềnTây Nambộ. Chắc bạn chưa
quên là đasố ngườiTriều địnhcư ở miềnTây là hậuduệ những người theochân Mạc Cửu
với hơn 50 ngàn người Minhhương àoạt từ Tàu tỵnạn thẳngtới miềnTây Việtnam bằng
đườngbiển khi nhàMinh sụpđỗ cáchđây hơn 500 năm. Cóphải vìvậy ta gọi họ là
"ngườiTàu"? Giốngnhư "thuyềnnhân", "boat people", Việtnam vậy. Thànhphần
ngườiTàu đó cộngchung với một thiểusố khác cólẽ đã đến trướcđó cũng bằng tàughe,
baogồm cả những nhóm mà ta gọilà ngườiHẹ, ngườiPhúckiến, ngườiQuảng... đã
đến địnhcư
lâuđời ở miềnTây, đasố cóthể giờđây đã Việthoá hoàntoàn. Nhưng cũng
chưachắc, cứ thử giảđịnh rằng ôngcốôngsơ của bạn cũng cóthể mang họ Nguyễn, và
nếu quảlànhưvậy cũng rất cókhảnăng là tổtiên bạn đã đổi họtên saukhi mang
giòngmáu họ Nguyễn từ Bắc dicư vàoNam bằng đườngbộ. Họ Hoàng hay họ Vũ cũng theo
đường này. Tuynhiên, cóthể có một hay nhiều khâu dọctheo đườngcáiquan chaông của
tổtiên bạn đã lấyvợ hoặclà ngườiChàm hoặclà ngườiChânlạp... và nhưvậy
đờiconđờicháu đã hoàchủng với người bảnxứ. Nóinhưvậy tôi cóý nhấnmạnh là càng
tiếnsâu vào miềnNam, lượng máu Tàu của didân khaihoang lậpnghiệp trongNam cólẽ
ngàycàng loãng dần. Đốivới một thiểusố người ta cóthể dùng mắttrần nhìnthấy
sựkhácbiệt qua vócdáng và thểchất. Nhưng bạn vẫn tựhào là ngườiViệtnam chodù cái
họ Huỳnh, nếukhông phải gốcTàu thì tổtiên bạn sẽ "đớp" (adopt) cái họ Việtnam có
ýnghĩa hơn là "vàng" chứ khôngmắcmớgì lại mượn tiếng HánViệt "hoàngkim" hay
"huỳnhkim". Hìnhnhư chẳng thấy ai làm nhưthế vì tôi chưahề biết là cóngười có họ
"Vàng", mà chỉ có họ Hoàng, mà ngườiTàu Quảngđông có cái họ đồngtông biếnthể là
họ "Wong". Nhưng Hoàng với cáchviết khác cónghĩalà "vua", tứclà bàcon với một
ông "Huang" ông "Wang" nàođó, mà "Wang" cònlà đồngtông với họ "Vương"! Một
ngườibạn của chúngta mang họ Đỗ, bạnta chorằng giònghọ của nhà bạn là họ Nguyễn,
tổtiên đổi họ khôngchừng cólẽ trong thờikỳ giònghọ Nguyễn lánhnạn trongNam vì có
quanhệ tới Nguyễn Ánh. Lýlẽ của anh bạn mình cóthể sai bởilẽ là giađình bạn mình
là Bắckỳ dicư 54. Cóđiềulà họ Nguyễn xuấthiện rấtnhiều với tên của người gốc
Quảngđông, Triềuchâu và Hẹ ("Cácchú"). Hầuhết mọingười trong chúngta chỉ biết
nói tôi đây là ngườiViệt dù không giảithích được nguồngốc cái họ Tàu của mình.
Cái dỡ của ôngbà mình là ở chỗđó, cólẽ vì chiếntranh loạnlạc
và đóikhát triềnmiên, nếukhông giờnầy ta khôngcòn thắcmắc tại sao LạcViệt,
Lạchồng, Hùngvương, Hồngbàng, ĐạiNgu, ĐạiViệt, và Việtnam lại mang ngữtố
HánViệt. Theo sựsuyluận của tôi dựatheo những dữkiện lịchsử và ngônngữ,
tôi luậnđịnh là từ "Tàu" rấtcóthể là do chữ "Tần" màra mặcdù vẫnchưa tìmthấy
sựxuấthiện của cáchgọi nầy trong sáchvở xưa của Việtnam bởilẽ thưtịch cổ và
côngvăn Việtnam còn giữđược từ thếkỷ thứ 10 đến 1857 đều viếtbằng tiếngHán gọi
nướcTàu bằng tên triềuđại đang trịvì bênđó, baogồm cả chữNôm, tứcnhiên là lấy
chữTàu hoặc dùng thànhtố đó để kýâm tiếngNôm, và cái âmNôm ta đọc là dùng
tiếngViệt ngàynay để đọc, dođó, âm "tàu" chưachắc làđã được đọc nhưvậy từ
ngànxưa. Xin nhắclạiđây chuyện đạiphu Khuất Nguyên là ngườinướcSở đã khẳngkhái
chốnglại sựxâmlấn của quân Tần ("Tàu") và ông đã trầmmình tựvẫn vì tứcgiận Sở
Hoàivương không nghe lờikhuyêncan để bị nướcTần thôntính. Vì lòng kínhyêu nhàthơ
yêunước nầy nên dânnướcSở đã nấu bánh-ú thảxuống sông nơi Khuất Nguyên trầmmình
để cá khỏi rỉa thânxác ông, dođó đãcó tục ngày TếtĐoanngọ mồngnăm thángnăm âmlịch.
DânViệt cho mãitới ngàynay vẫncòn "ăn" TếtĐoanngọ cũng như tấtcả sắcdân của sáu
nước bị nướcTần thâutóm thuởxưa mà giờđây toànbộ đã trởthành thựcthể Hántộc, mà cólẽ trong
vôthức tấtcả đều xem ngườiTần là "ngườiTàu" xâmlược. Dân nướcSở, theo sáchvở, là
một thànhphần trong khối BáchViệt, thổdân nguyênthuỷ sống phíadưới vùng phíanam
hữungạn sông Hoànghà và toàn vùng lưuvực Sông Dươngtử về phíanam, mà Bình Nguyên
Lộc cholà họ thuộc chủngtộc Mãlai, trongkhi các nhàdântộchọc Tâyphương ngàynay
phânbiệt rõ thành ngườiNamÁ, haylà Austroasiatic, và Malay, thuộc Austronesian,
và cảhai là tổtiên của tấtcả những cưdân phânbố khắp vùng đôngnam ChâuÁ. Ngoàira
ta cũng cóthể suyluận căncứ vào thờiđiểm lịchsử và vịtrí địalý, cưdân nướcSở,
nằmtrong địaphận của Tỉnh Hồbắc thuộc Trungquốc ngàynay, phảicó nguồngốc
BáchViệt. Có sách còn khẳngđịnh họ là tổtiên của dântộc Nùng, hậuduệ của dân
một nước có tên là Thươngngô thờicổđại có từ 4000 năm
TCN (trướcCôngnguyên). Vìlẽđó, khi nhàHán tiêudiệt
nhàTần, những ngườidân thuộc các sắctộc cógốc BáchViệt trong sáu nước bị nướcTần
thôntính (phải hiểu là dânchúng trong mỗi nước là một tậphợp của nhiều sắcdân
bảnxứ đã hoàchủng với dân của người thuộc giaicấp thốngtrị đứngđầu là vua hay
vương) đã dễdàng chấpnhận sự caitrị và đồnghoá của ngườiHán (thờibấygiờ kháiniệm
nầy đốilập với "ngườiTần"), Thờiđiểm đó baogồm luôncả nhiều sắctộc cưdân dòngdõi
BáchViệt của nước NamViệt dưới sựcaitrị của một vịtướng nhàTần là Triệu Đà. Theo
thờigian, vì những lýdo biếnthiên lịchsử như ta đã biết, ta đã hoàđồng kháiniệm "ngườiHán"
và "ngườiTàu" vàochung một giỏ theo nghĩa ta dùng ngàynay, ychang như trong
tâmthức "ngườiHán", là họ ýthức được "tộcHán" là một tổngthể kếthợp đadạng. Dođó
ta không lấylàmlạ ngàylễ ở Trungquốc hiệnđại không có ngàylễ nào gọilà lễ Ngưu,
Thuấn, Lưu Bang (Hán Caotổ), Lý Dân (Đường Tháitổ), hay ngaycả tên đườngphố,
dườngnhư khôngcó tên đườngphố nào gọi là đường Viêm Đế, Châu Vănvương, Đường
Minhhoàng, Khanghi hay Cànlong (đạidiện cho dântộc Mãnchâu đã bị Hánhoá), v.v.
Điềuthúvị là ở Sàigòn ngàyxưa trước năm 1975 ta lại có những tên đườngphố như
Khổngtử, Trangtử, Hảithượng Lãnông, Triệu Đà, v.v... Trungquốc ngàynay là một
nước chínhthức gồmcó đạiđasố thànhphần dântộc mà tôi gọilà
"ngườiHán-tạppínlù" và trên 50 sắctộc thiểusố chưa
hoàntoàn bịHánhoá, nói mộtcáchkhác, là một liênbang "hợpchủngquốc" thànhhình từ
thờicổđại và nếu xứ nầy khôngcó chữHán gắnbó họlại vớinhau, ngàynay nướcTàu
cóthể đã bị chianămxẻbảy khôngkhácgì Âuchâu. DântộcHán tự bảnthân trong giòngmáu của họ cũng đã chanhoà
đủ các thànhphần sắctộc rồi, và trên mộtnửa số các dântộc thiểusố, họ là các
sắctộc thuộc chủng BáchViệt (hãy sosánh chủng ẤnÂu của các
xứ trong Cộngđồng Âuchâu). Nhưvậy ta cũng có thể suyra, trong giòngmáu họ cũng
đã chảy đều một phần máumủ của dânBáchViệt. Dođó, "ngườiTàu" ngàynay
("Chinese") vềmặt dântộchọc, cái tổngthể của "dântộcTàu" bắtđầu thànhhình
lớnmạnh và nhanhhơn saukhi nướcTần ("Chin") tómthâu lụcquốc (Sở, Yên, Tề, Nguỵ,
Hàn, Tấn), và kháiniệm "ngườiHán", ápdụng chung cho tấtcả ngườidân sống trong
lãnhđịa Trunghoa "liênbang" thốngnhất kểtừđó nhưng đólà sợichỉ nốikết xuyênsuốt
từ thời Viêm Đế chođến bâygiờ, chỉ thựcsự xuấthiện saukhi Lưu Bang (Hán Caotổ)
tiêudiệt nhàTần lậpnnên nhàHán. Trước năm 199 TCN, nướcTần
(nướcTàu) chỉlà một nước nhỏ ("bang") nằm trên vùng Tâybắc thuộc Tỉnh Thiểmtây
(vềsau nớirộng thành vùng TamTần ("BaTàu") trongđó baogồm nướcThục (Tứxuyên
ngàynay), nóichung là vùng Quantrung (Guanzhong) của Trungquốc bâygiờ. Saukhi
thốngnhất nướcTàu, Tần Thỉ-Hoàng (221-208 TCN) đã huyđộng hơn 500 ngàn binh
(consố tolớn nầy rõràng là một tâphợp hùngbinh của những nước đã bị nhàTần
thutóm -- và trongđó thựcsự đãcó sự hoàlẫn các sắcdân bảnxứ của dântộc BáchViệt
rồi (như thídụ về sựviệc nướcSở tómthâu nướcThươngngô, haylà thànhphần dân
nướcViệt của Câu Tiễn và nướcNgô của thời Xuânthu Chiếnquốc) tiếnxuống xâmlấn
vùngđất được cổthư Tàu mệnhdanh là NamViệt. Dĩnhiên là thờiđó vùng nầy chưa bị
sátnhập "liênbang" Trunghoa mặcdù từ thếkỷ thứba TCN, Triệu Đà đã thốnglĩnh
vùngđất nầy trongđó baogồm Giaochỉ, Quảngtây, Quảngđông, và Phúckiến... Saukhi
nhàHán diệt nhàTần ở phươngBắc, nhân sựhỗnloạn ở vùng Trungnguyên, Triệu Đà lên
làmvua (Triệu Vũvương) và đặttên nước là NamViệt, thủphủ đặttại Phiênngung
(nay là tên của một khuquận ở Thànhphố Quảngchâu hiệnđại -- mộ của ôngta vẫncòn
ởđó). Thànhphần dânsố lúcbấygiờ đasố vẫncòn là dân của các sắctộc thuộc tộc
BáchViệt, ngaycả chođếnkhi Hán Vũđế đemquân thôntính và sátnhập nước nầy vào
lãnhthổ Trunghoa năm 112 TCN. Giaochỉ vềsau trởthành một châu của nhàHán và được
đặttên là Giaochâu. Dưới sựcaitrị khắcnghiệt của nhàHán, thổdân
bảnxứ -- gốc LạcViệt
và rấtcóthể có mối quanhệ trên một chừngmực nàođó với một sắctộc là tổtiên của
người Mon-Khmer ngàynay (căncứ vào những vếttích từvựng cănbản dù rấtít còn
hiệndiện trong tiếngViệt), là ngườiViệt cổđại trướckhi có sự
táchra thành
nguờiMường và ngườiViệt -- dưới sựlãnhđạo của hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị, họ
đã nổidậy chốnglại quân thốngtrị nhàHán nhưng thấtbại. Nhiều người đã bỏchạy lên
miền Thượngdu mà ta vẫncòn gọichung là "ngườiThượng", người ởlại miền đồngbằng
chịu sựđồnghoá của ngườiHán -- Hánhoá -- và trởthành "ngườiKinh", haylà ngườidân
ở vùng kinhthành. Để củngcố sựthốngtrị của họ, nhàHán thiếtlập Annam Đôhộphủ và
bắtđầu tiếntrình khaihoá và đồnghoá dânbảnxứ -- ngườiAnnam thànhhình (thuậtngữ
Annam và dânAnnam đượcdùng để phânbiệt với dânLạcViệt trướckhi bị đồnghoá).
Trongkhi Sĩ Nhiếp mang vănhoá Trunghoa đến "Hánhoá" dânbảnxứ, những ngườilính
viễnchinh thuộc đủ mọi sắctộc của nhàHán cộngvới những lànsóng ngườidicư đã
đếnđây và nhiều người đã không quayvề lại nơi chônnhaucắtrún xalắcxalơ ở
phươngBắc, và họ đã nhận "Annam" làm quêhương, lấyvợ đẻcon, gópphần thúcđẩy
tiếntrình "Hánhoá", và ngượclại họ cũng đã bị "Annamhoá" bởi
đámđông đasố
"ngườiKinh". (Sosánh thêm sựkiện línhMỹ đến miềnNam Việtnam chỉ trongvòng 10 năm
1965-1975 và họ đã đểlại hơn 50 ngàn đứa conlai "Việthoá". Nếumà cha của chúng
có chọn ởlại Việtnam, đám conlai vẫn nói tiếngViệt như ngườibảnxứ chodù chúng có
mang họ Mỹ nàođó, giốngnhư "dânTây" sau 1954.) Và quátrình này đã tiếpdiễn qua
nhiều triềuđại suốt 1000 năm dưới áchthốngtrị của ngườiHán, ngaycả saukhi
nướcViệt đã giànhđược độclập từ năm 936 (vào thời bên Trunghoa nhàĐường đang
suysụp), kinhqua sự sùngbái Nhogiáo, chếđộ phongkiến đượcxem là
ưuviệt thuởxưa, và sự thầnphục nướcTàu chomãiđến năm 1884 khi nhàNguyễn kýkết Hiệpđịnh Huế với Pháp cụthể phủnhận sự
thầnphục triềuđình nhàThanh! Dođó, sựhìnhthành của ngườiViệt thựcchất là
từ
sựhoàchủng của ngườidân bảnxứ ("50 con xuốngbiển") với dânbảnđịa
và dântứxứ từ khắpnơi ở phíabắc, baogồm cả thànhphần quân nhàHán thờibấygiờ cũng đãcó sựhoàchủng
rồi, và phíanam (Môn, Khmer..) tới.
Vìvậy, khi bànđến kháiniệm "ngườiViệt", ta phảihiểu là ngườiViệt của thờiđiểm
thếkỷ 21 (nói tiếngViệt với ngữtố đồngnguyên với tiếngHán)
khôngphải là
ngườiViệt của thếkỷ thứnhất hay của thời Hùngvương (cóthể dân thờiđó nói một thứ
"tiếngLạcViệt" cổ thuộc gốc Môn (?) và giỏi về kỹthuật
luyện đồngthau, và ta cũng
nên tựhỏi thêm tạisao chaôngtổtiên chúngta đến ngàynay lại quênmất cách đúc trốngđồng?).
Trong mỗi giaiđoạn của quátrình pháttriển của mỗi dântộc, vềmặt địalý
và lịchsử, ta cóthể nhậnthấy rằng thựcthể dântộcViệtnam, pháttriển
songhành với
sựthànhhình của dântộcHán, càngxuống địabàn phíaNam, tính hợpchủng với ngườidân
bảnxứ phíanam càng đậmnét như ta nhậnthấy khi đisâu xuống tầng bảnđịa.
Nếu bạn sang viếngthăm các tỉnh thuộc miềnnam của Trungquốc ngàynay, nhấtlà Tỉnh
Quảngtây, bạn sẽ thấy ngườidân của tỉnh nầy, không khácbiệt mấy với dânViệtnam
ta, thídụ so về mặt thểchất, nhưlà vócngười nhỏnhắn so ngườiTàu phươngBắc caolớn
(do họ hoàchủng lầnnữa với "rợHồ" thuộc gốc Tartar, ngườiAltaic,
ngườiKim, ngườiMãnchâu, ngườiMôngcổ...)
và tậpquán ănuống, thídụ, cơmgạo và bún là mónăn chính của người phươngNam
thayvì bánhbao làmbằng bộtmì của "ngườiHán" phươngBắc. Cái điểmchung trong cái
vănhoá ẩmthực của tấtcả là ai cũng đều
biết dùng "đũa" (một từ có cùng gốc với tiếngHán), uốngtrà ("chè"), một đặcsản
phátxuất từ phươngNam ở vùng Phúckiến, haylà nướcViệt của Câu
Tiễn ngàyxưa. Cũng với
cáinhìn tươngtự, ở xứta, càng xuốngsâu vào trongNam của nướcViệt thờihiệnđại,
yếutố bảnđịa hoàchủng với dânbảnxứ (ngườiLâmấp, ngườiChàm, ngườiMôn, ngườiChânlạp, v.v. thuộc
các nền vănhoá khácnhau trongđó baogồm nền các vănhoá Sahuỳnh,
Hồigiáo, Ấnđộ, Ốceo...) cũng dầndần
hiện rõnét hơn. Dườngnhư nơinào có địadanh bảnđịa nơiđó càng mang đậmnét bảnxứ,
thídụ, Đànẵng, Quảngđức, Buônmêthuộc, Pleiku, Đắclắc, Phanrí, Sóctrăng,
Hàtiên... Tưởng cũng nên nhắclại là hầuhết những địadanh ở Việtnam ngàynay,
ngaycả tại những vùng mới được sátnhập vào lãnhthổ Việtnam từ sau thếkỷ thứ 12
như từ Thuậnhoá trởvào miềnNam, từBắcchíNam nơinào cũng đầyrẫy những địadanh
tiếngHánViệt hoặc đốixứng hoặc đã cósẵn bên Trunghoa từ ngànxưa, thídụ, Sơntây,
Tháinguyên, Hànội, Hàbắc, Hànam, Hàđông (ta "chôm" luôn cả thànhgữ "sưtử Hàđông"!),
Quảngtín, Quảngnam (đốixứng với Quảngđông và Quảngtây), Tâyninh, v.v. quánhiều
kểkhôngxuể, và điềugì đã buộc ngườita khôngdùng địadanh bảnđịa đãcósẵn mà lại
đặt những tên mới nhưvậy nếu chúng không mang một ýnghĩa đặcbiệt nàođó với cưdân
ởđó? Thànhphần dânsố từđó cũng phảnảnh mộtcách chừngmực, thídụ, bảnsắc người
thuộc Tỉnh Hàđông khácvới người vùng Tỉnh Sóctrăng, dân Thuậnhoá dĩnhiên là có
những nét cábiệt khácvới dân Phanrang. Ngàyxưa ngườiTàu phươngBắc gọi
những người phươngNam là "NamMan", nóichung là "man" là "mọi". Tổtiên của những
ngườiKinh sống ở vùng đồngbằng SôngHồng ngay từxưa lại cũng dùng từ "mọi" để chỉ
người dânthiểusố ngườiThượng sống trên miềnthượngdu, mà họ cóthể đãtừng là
chủnhânông của vùng đồngbằng ruộnglúa màumỡ và chỉvì họ bị đànáp, tànsát,
truyđuổi, bấthợptác với ngườiHán thốngtrị chonên đãbỏchạy lên miềnnúi
rừngthiêngnướcđộc (sosánh những biếncố xungđột sắctộc ở miền Tâynguyên đã đẩy
hàngngàn người thuộc dântộc thiểusố gốc Mon-Khmer sang Cambốt 10 năm trướcđây.)
Nếu quảthật là họ cùng gốc với tổtiên của ngườiKinh sinhsống ở vùng bìnhnguyên
thì ngườiKinh đã không gọi những ngườiThượng bằng cái danhtừ "mọi" mộtcách
trịchthượng có tínhcách miệtthị nhưvậy (ngượclại cũng thế, Việtkiều sống ở
Cambốt trong lịchsử đã bị cápduồn baolần?), trongkhiđó lịchsử
chothaây ngườiViệt
baogiờ cũng tửtế với "Hoakiều" sốngchung với họ mặcdù mẫuquốc của họ đã liêntục
hiếpđáp dânViệt trong suốt chiềudài lịchsử dựngnước và giữnước! Trước những
biếncố dẫnđến cuộc chiếntranh biêngiới giữa Việtnam và Trungquốc năm 1979,
nhànước Việtnam longại về một viễntượng "độiquân Tàu thứnăm" ở trongnước nên đã
có chínhsách mởcửa biêngiới và côngkhai khuyếnkhích, nhưng không épbuộc, Hoakiều
rờibỏ Việtnam. Bấygiờ chỉcó mộtsốít khoảng 100 ngàn kiềudân chấpnhận trởvề
cốquốc của chaông mấy đời trước qua ngã Namquan và Móngcái, còn số hàngtrămngàn
người cònlại đều theochân ngườiViệt chọn quêhương thứba khác trên thếgiới.
Tínhcảthảy trong thậpniên 1975-85, khi ngườita nói hơn một triệu người dânViệt
bỏnướcrađi, cónghĩalà hơn nửatriệu ngườiHoa đãđược baogồm trongđó. Khi sang
địnhcư ở nướcngoài, Hoakiều Việtnam tỵnạn vẫn giữ sự giaodu làmăn vơi ngườiViệt
hơnlà ngườiTàu đến từ các xứkhác. Như ta đã biết, ngườiHoa sinhsống trong những
nước ĐôngnamÁ rất nhiều, Philuậttân, Namdương, Tháilan, và đặcbiệt là ở Mãlai
với dânsố Hoakiều chiếm trên 33 phầntrăm (thốngkê chínhthức) sovới người
gốcMãlai bảnxứ, mà sựhoàchủng ở những xứ đó cólẽ sẽ không lặplại những gì đã xảyra ở
xứta -- ngườiHán thốngtrị và xôđuổi dânbảnđịa lên miền
rừngnúi -- vì lịchsử chothấy
khi kinhtế của những xứ đó mỗikhi cóđiều trụctrặc gặp khókhăn là Hoakiều ởđó bị
"làmthịt" theo đúng nghĩađen của từ này. Lịchsử ghinhận trong quákhứ đãcó hàng
trămngàn Hoakiều bị tànsát ở Philuậttân, Mãlai, và Namdương. Chuyệnnày đã xảyra
ngaycả trong thờiđại ngàynay tại Namdương thời thậpniên 60 và chỉ mới 10 năm
trướcđây chodù đasố ngườiHoa ở xứđó đều mang tênhọ ngườiNamdương! Trongkhiđó,
theo thốngkê chínhthức thì có baonhiêu "Hoakiều" ở Việtnam? Chỉ mới hơn 1
phầntrăm dânsố! Nếuthế, ta cóthể đặt câuhỏi là dânTàu từ phươngBắc xuống Việtnam
từxưanay đã biếnđiđâu hếtrồi? Rõràng là số dânTàu dicư đến Việtnam trongsuốt hơn
haingàn nămnay đã biếnthành một thànhtố khôngphânbiệtđược trong cái tổngthể
cấuthành dântộc Việtnam. Về mặt thểchất, bạn đã đến Mỹ và tự quansát và đã thấy,
trẻcon Việtnam ngaycả của của thếhệ thứnhất sanh ở Việtnam nhưng lớnlên ở Mỹ đềucó vócngười
caolớn, trắngtrẻo, và chúng thường bị nhìnlầm là ngườiTàu giữa đámđông
dânÁchâu như ngườiViệt thuộc thếhệ chachú mới đến, ngườiPhi,
hay ngườiCampuchia nàođó. Dođó, những lýluận bàncải về nguồngốc dânViệt thuộc
giốngdân NamÁ (aka "BáchViệt") cóphải là từ lụcđịa xuống hay từ các hảiđảo
miềnNam lên 10 ngàn nămtrước (?) thì khôngănnhậpgì tới sựkiện quantrọng là
sựhoàchủng là giữa "Hántộc" từ phươngBắc xuống với "Việttộc" chora dântộc
Việtnam ngàynay vềmặt dântộchọc. Vìvậy
cách luậngiải "ngườiViệt là
sựhoàchủng của ngườibảnxứ (tứclà dânLạcViệt thuộc BáchViệt) với "ngườiHán-tạppínlù""
có liênhệ mậtthiết với sựkiện ngườiViệt mang họ Tàu, nếukhông, làmsao ta
lýgiải được sựkiện mỗingười trong chúngta đều mang họ Tàu? Cóngười chorằng
nhiều họ đãđược vua thưởngcho vì cócông. Nhưng triềuđại Việtnam chỉcó ngầnấy họ,
nhàTrần, nhàLê, nhàNguyễn... Còn họ của mấy ôngvua thì
các ngài lấyđâura, xin của
ai, ai thưởng cho? Họ của ngườiViệt chỉcó nămba chục họ đổlại, còn họ Tàu bên
Tàu thì nhiềukhôngkểxiết, khôngphải trămhọ mà cả hàngngàn họ. Ta nhận thấyrõ
họViệt là một "sub-set" của hàngngàn họ Tàu kia. Thựcra ta cóthể làmnghiêncứu và
truynguyên ra những họ Việt tươngđồng cùnggốc của những họ của những nhóm
ngườiHoa gốc Quảngđông và Triềuchâu, của những nhóm khác có tổtiên làmquan bên
Tàu bị đàyải điđến chốn của bọn "mandimọirợ", và của những người thuộcvào số
người cònlại khác để giúp ta cóthể quyra là có nguồngốc từ dândicư
đã đến từ
miềnNam nướcTàu, cũngnhư từ những đám línhviễnchinh hỗnhợp đủ các sắctộc
bênTàu có tổtiên đã bị "Hánhoá" (mà tôi gọilà "ngườiHán-tạppínlù") trướckhi
thừalệnh đến xâmchiếm vùngđất Giaochỉ. Đasố những kẻthahương
đó -- phầnlớn là những
traitráng xuấtthân cùngđinhcựckhổ -- đã địnhcư vĩnhviễn ở vùngđất mới
nơiđây. Nênnhớ là thờixưa giaothông rất khókhăn, cóngười cảđời cólẽ chưabaogiờ
rờixa quá 50 câysố khỏi làngmạc của họ, khi họ đã đếnđây rồi họ sẽ khómà có
phươngtiện để trởvề cốquốc. Saukhi địnhcư lậpnghiệp họ đã lấyvợ ngườibảnxứ và hoànhập vào
dòng "Việttộc", sanh cháu sanh chít, tấtcả dođó đều mang họ Tàu. Kháiniệm
"Hánhoá" là một từ lộingược dòngthờigian baogồm luôncả đasố người trong đám 500
ngàn línhviễnchinh của Tần Thỉ-Hoàng xuống chinhphục miền
NamViệt và đasố những
ngườiđó đã bị "Tầnhoá" (Tàuhoá?) trướckhi bị nhàHán "Hánhoá". Nóiđinóilại
kếtluận chủyếu vẫnlà phầnlớn dânViệtnam chúngta ngàynay là hậuduệ của dânbảnxứ đã hoàchủng với những
ngườiTàu ("ngườiHán-tạppínlù") đến vùngđất nầy ròngrã từ hơn haingàn năm
đỗlạiđây, tínhluôn thờiđiểm kểtừkhi nướcViệt giànhđược độclập từ năm 936, và
nhưvậy dântộc Việtnam đã thựcsự thànhhình như ta thấy ngàynay là cái tổngthể
hoàhợp chủngtộc của "thổdân" và ngườiđếnsau từ phươngBắc trong suốt mộtngàn năm
Bắcthuộc và của những triềuđại tiếptheo sauđó. Hãy sosánh cái "melting pot" của
nướcMỹ, hay đúnghơn là của các nước NAMMỸ, vì ta cóthể nhậnthấy môhình chủngtộc
của phầnđông dânsố các nước châuMỹLatinh sau chỉ 300 năm bị người Tâybannha
thốngtrị và đồnghoá, thànhphần "Hispanic" (dânbảnxứ hợpchủng
với ngườiTâybannha datrắng) đasố manghọ Tâybannha và nói
tiếngTâybannha, còn dânbảnđịa vẫnlà dânbảnđịa, có sựphânbiệt rõràng, và ở xứta,
dânbảnđịa chínhlà "dânThượng". Nếuthế tạisao ngườiViệt lại không "ưa"
ngườiTàu? Bạn có "ưa" ngườiTàu ở Việtnam không? Khônghỏi nầy thật khó trảlởi.
Nóiđúngra là ta khôngưa cái nướcTàu khổnglồ phươngBắc thườngxuyên ănhiếp
nướcta chứ
khôngphải cánhân Hoakiều nàocả. Bằngchứng là ngườidân xứta đã
sống rất hoàđồng với
nhiều cộngđồng ngườiHoa chungquanh, đasố là hậuduệ của những người mới dicư
đếnsau cở từ 500 năm đỗlại đây, đólà
ngườiQuảngđông, ngườiHẹ, ngườiHảinam, ngườiPhúckiến, và người Minhhương baogồm ngườiTriềuchâu,
mà trên thốngkê chínhthức
thiểusố ngườiHoa ở Việtnam mới hơn khoảng 1 phầntrăm dânsố. Bởi những lýdo
lịchsử, nướcViệt dườngnhư lúcnào cũng ởtrong tưthế chuẩnbị để đốiđầu với những
đedoạ uyhiếp từ anhTàu (để chỉ Trungquốc) vì anhta quámạnh xưanay, nhấtlà vào thờiđiểm
của thếkỷ 21 ngàynay. Ttừxưađếnnay nướcViệt lúcnào cũng phải hoàhoãn tìmcách
phòngvệ để khỏibị Bắcthuộc mộtlầnnữa. Ngàynay nhànước ta chơi với anhTàu nhưng,
dânta cũngnhư ngườiĐàiloan, ngườiTângiaba, người Mãlai -- về mặt thờigian thì họ
thuộc thờicậnđại -- khôngai muốn trựcthuộc Trungquốc hết mặcdù thànhtố ngườiTàu
ở những xứ này rấtlà đôngđảo. Môhình chủngtộc của Việtnam chínhlà hìnhảnh của
Đàiloan sau haingàn năm nữa, nếu xứ nầy còn tồntại như một thựcthể riêngbiệt như
ta thấy ngày hômnay, dân của xứ này sẽ không nhận họlà "ngườiTàu" mà họ sẽ tự xem
mình là dânĐàiloan (ngàynay đãthế) mặcdù thànhphần dânbảnxứ ("thổdân") Đàiloan
rấtlà ít (nếu bạn sang Đàiloan và thấy rấtnhiều người nhaitrầu bỏmbẻm khắpnơi,
đólà hậuduệ của dânPhúckiến, là hậuduệ của sắctộc ÂuViệt trong tộc BáchViệt đã
hoàchủng với "ngườiHán-tạppínlù" chứ khôngnhấtthiết phàilà "thổdân" gốc
Austronesian). Cóphải nói nhưvậy mọingười trong chúngta mang họ Tàu đều
có tổtiên là ngườiTàu hết à? Trảlời thoảđáng câuhỏi nầy chưacó nghiêncứu đứngđắn
nào trựcdiện với vấnđề mộtcách kháchquan (khôngcó đầuóc thiên
Tàu hoặc bài Tàu) và
khoahọc (nhưlà lập bảng môhình gene-DNA -- khônghiểusao các ông khoahọcgia
nhàta vẫncòn chưa
thựchiện nổi dựán nầy -- cũngnhư đồngthời tiếnhành những nghiêncứu mớimẻ về
lịchsử cổđại của các dântộc thuộc tộc Báchviệt như đã được ghichép rảirác và
tảnmạn trong cổthư của Tàu nhưng chưacó nghiêncứu nào nhắcđến chúng, khôngcứphải
nhaiđinhailại những điều đãcósẵn từ Hoàng Lê Thôngnhất Chí, Đạinam Sửlược,
Việtnam Sửlược, v.v...) Tómlại, dưới mắtnhìn của tôi, ngườiViệt của nướcViệt
ngàynay chínhlà hậuduệ của một tổngthể thànhtựu và kếttủa từ đám cháuchít của
dânbảnđịa -- tính luôncả những nhóm đã bị hoàchủng hoàntoàn trướcđó -- họ là
những ngườigốcTàu đã hoàntoàn "Annamhoá" từ nhiềuđời liêntục trongsuốt hơn
haingàn năm trước và đã trởthành "ngườiKinh" hay "dântộcKinh". Trong thờiđại
ngàynay cứ đơngiản nhìn quanh bạn những ngườiquenbiết là bạn thấyngay tỷlệ
Tàu/Việt khácao, đólà chưakể những người gốcTàu đã hoàntoàn Việthoá. Thídụ,
bênngoại của tôi, nguyên cũng là người gốc Hảinam và ôngngoại
tôi vẫncòn nói trọtrẹ tiếngViệt, nhưng nay tấtcả giađình
phía cậudì
cùng anhemcậumợ đều đã trởthành ngườiViệtnam 100 phầntrăm, và dĩnhiên là cái họ
Diệp chưahề bị thayđổi. Còn "ngườiThượng", họ là ai? Họ chínhlà những ngườidân
bảnđịa bị đẩylên vùng miềnthượngdu (tổtiên của Mạc Đặng-Dung là người cóthể
thuộc dântộcTày -- Dai, Tai, Thai -- mà có sách gọilà dântộcĐản
thờicổđại), trongsốđó cócả
"ngườiMường" (gầngũi với ngườiViệtnhất, và Vua Lê Lợi cóthể là người gốcMường)
là nhữngngười bấthợptác với những ngườichủ mới trên đấtđai của họ, là giaicấp
thốngtrị của nhàHán bắtđầu trướchơn thuở vùngđất Giaochỉ được đổitên thành
Giaochâu vàokhoảng năm 197. Dođó từ câuchuyện nguồngốc họ P. của tôi và
họ Diệp bênngoại tôi, nói thêm dămbacâu nhànđàm về họ Huỳnh của bạn, rồi nếu có
tán thêm về họ Khổng, họ Đỗ, họ Võ, họ Cao, họ Đoàn, họ Trịnh, họ Lâm, họ Lê, họ
Lưu, họ Phạm, v.v.. cuốicùng kếtluận tấcả vẫn đềulà những họ Tàu.
Và nóichung,
khôngcó họ nào là họ Việtnam thuầntuý cả, kểcả họ Nông. Ngườita cũng chorằng họ
Nông là họ của ngườiNùng nhưng thựcra đó cũnglà họTàu! Nói về ngườiNùng,
nhưđãkểtrên, đâylà nhóm dântộc thiểusố cómặt khắpnơi từ trên miền
thượngdu Bắcbộ ở Việtnam trảidài đến suốtcả vùng miềnnam Trungquốc. Dântộc nầy ở Trungquốc
ngàynay ngườita gọilà tộc Tráng, dù họ vẫn giữ bảnsắc riêng thuy đasố bâygiờ
cũng đãbị Hánhoá khánhiều, tấtcả hầunhư ai cũng đều mang họ Tàu như ta. Cũngnhư
sắctộc LạcViệt, tổtiên của dânNùng là một thànhphần của các dântộc BáchViệt của
trên 4000 năm trước nằm trên địabàn miềnNam Trunghoa vượtqua bên tảngạn Sông
Dươngtử lêntận đến vùng thuộc Tỉnh Sơnđông miền Đôngbắc nướcTàu trướckhi
ngườiHán bànhtrướng đến chiếmlĩnh và đồnghoá. Trong thờiđại ngàynay, dântộc
Tráng (Nùng) là một dântộc có sốdân thiểusố đôngnhất thếgiới, hơn 20 triệu
người, sống trong một lãnhthổ mà họ khôngcó quốcgia riêng (quốcgia riêng của họ
ngàyxưa đã bị thaythế bằng nướcSở cáchđây trên 2500 năm). Địabàn tậptrung của
dântộc nầy ngàynay nằm trong khuvực tựtrị của Tỉnh Quảngtây, Trungquốc. Ngàyxưa,
ngườiNùng là người bấthợptác với ngườiHán, số người chấpnhận sựHánhoá, ngàynay
đã trởthành ngườiQuảngđông, ngườiPhúckiến! Tôi đã từng hoàinghi là ngườiViệt
cổđại của tổtiên dântộc Việtnam ngàynay có máumủ quanhệ với dânNùng nhưng luậncứ
nầy chỉ căncứ trên những sựkiện vănhoá như divật trốngđồng mà chotới ngàynay họ
vẫncòn sửdụng vào các dịp lễlạc (họ còn có cả chuyệncổtích về nguồngốc
trốngđồng), sựtích nỏthần, và vềmặt ngônngữ, ngữpháp của tiếngNùng có cấutrúc
danhtừ đitrước hìnhdungtừ đisau, và vếttích nầy vẫncòn hằndấu trong
tiếngQuảngđông, thídụ, "gàcồ" họ gọilà "cáycông" (tiếng Phướckiến, Triềuchâu, và
Hảinam cũng đềucó cáchnói tươngtự.) Cóđiều là khi tôi nghiêncứu từnguyên đã
không tìmthấy sựtươngđồng nào đángkể với các cụmtừ cơbản giữa tiếngNùng và
tiếngViệt, cólẽ vì từnguyên tiếngViệt đã bị Hán lấnát gầnhết. Sởdĩ tôi
dàidòng nhưvậy vì vấnđề ngônngữ và dântộc đều có mốiquanhệ mậtthiết vớinhau,
vídụ, sự táchrời ngườiKinh và ngườiMường từ ngườiViệtcổ bảnxứ giốngynhư
sựtáchrời của tiếngViệt ra khỏi ngữchi Việt-Mường. Thựcra nhậnthức này chỉ
nảysinh trong tôi sau những cốgắng truytìm nguồngốc tiếngViệt, cụthể hơn, đólà
từnguyên tiếngViệt có gốcHán. Tôi nhậnthấy sự hìnhthành dântộc Việtnam và
tiếngViệt có rấtnhiều điểmchung, đólà cáinền BáchViệt, còn cụthể thì tôi vẫn
chưabiết cái nềnnguyênsinh (aborginal stratrum) của LạcViệt tiếpcận với
thànhphần sắctộc thiểusố nào ngàyxưa để bắt câycầu nối bị đứtđoạn bắtđầu
từlúc dân
LạcViệt saukhi đã trảiqua hết sự caitrị của 18 đời Hùngvương -- kéodài tốiđa là 500 năm,
tuổithọ thờiđó khôngcao -- tìnhhình ở xứ Giaochỉ thờibấygiờ đã rasao trướckhi
hoànhập vào nước NamViệt của Triệu Đà? Đám dânbảnxứ có ngónchân giaonhau đã biệtdạng chốnnào
khi nhàHán đến caitrị xứ nầy? "50 con lênnúi?" Dântộc đó cólẽ phải biết
trồnglúa, ăntrầu, nhuộmrăng, xâmmình, đánhcá, luyệnđồngthau, đúc trốngđồng, v.v... tuỳtheo
thờiđiểm và khônggian mà ta xácđịnh là muốn bắtnguồn vùng Hồnam Độngđìnhhồ hay
chỉ tính từ vùng Châuthổ Sông Hồng, mà ở cả hai vùng đều cómặt những người thuộc
sắctộc Môn (thuộc Mon-Khmer) vì trong tiếngViệt đã giữlại những dấuấn đángkể vì
ngoài sự vaymượn từvựng do sựgiaotiếp ra còn phải có mối liênhệ cậtruột nàođó
trướckhi ngườiHán tới. Bànđến vấnđề ngônngữ, sự hìnhthành một dântộc
thường điđôi với sự hìnhthành tiếngnói của dântộc đó. Những yếutố cấuthành
tiếngViệt hiệnđại, trong quátrình pháttriển, yếutố mạnh sẽ lấnát những yếutố
yếu. Dođó, nghiêncứu về nguồngốc dânViệt cầnphải có sựhỗtrợ của những thànhquả
nghiêncứu về tiếngViệt. Và ngượclại đốivới tộcHán cũng
thế vì ngườita cũng đã tìmthấy rất nhiều dấuvết từ
"BáchViệt" trong tiếngHán (như yếutố Mon-Khmer
trong tiếngViệt). Bàiviết nầy chẳng phảilà bài nghiêncứu về Việtngữ chonên
những kếtluận vắntắc nêura ởđây là hệluận rúttỉa từ những nghiêncứu của vấnđề đó
màra. Tuy những nhàngữhọc Tâyphương ngàynay -- theo thiểný, có điều phiếndiện và
thiếu "ngữcảm", tuylà "Tây" nhưng khôngnhấtthiết mấy ổng đúng vì đasố dựavào
thôngtin do "informants" hay "thôngdịchviên" cungcấp, sửdụng côngcụ ngữhọc ẤnÂu
mộtcách máymóc và cứngnhắc cũngnhư không "master" ngônngữ liênhệ mà họ nghiêncứu
-- đều kếtluận là tiếngViệt có nguồngốc NamÁ (Austroasiatic, aka "Báchviệt")
thuộc ngữhệ Mon-Khmer, ngữchi Việt-Mường pháttriển từ tiếngViệtcổđại, haylà
"Vietic". Trong tiếngViệt hiệnđại tấtcả những thànhtố tiếngHán cổđại và hiệnđại
đều hiệndiện rõnét và được sửdụng tíchcực, nhấtlà vềmặt từvựng,
baogồm luôn những từ cănbản, trongkhiđó tiếngViệt lại cáchxa rấtnhiều với những
ngônngữ thuộchệ Mon-Khmer. Dùlà trong bấtcứ ngônngữ nào trên thếgiới ngàynay đều
có những yếutố vaymượn ngoạilai, nhưng những từ cơbản dùng trong sinhhoạt
hằngngày cũngnhư những kháiniệm để chỉ nhự sựvật và hiệntượng xungquanh ítkhi
cósự vaymượn. Dođó sựtươngđồng của những từ cơbản này trong tiếngViệt với nhiều
phươngngữ tiếngHán cho thấy mốiquanhệ của chúng không chỉ đơngiản là sựvaymượn
thuầntuý mà cóthể có mốibànghệ vì lýdo cả hai dântộc Hán và Việt, nhưđãkểtrên,
hìnhthành do sựhoàchủng lẫnnhau. Sựkiện nầy chora kếtquả phảnánh rõnét trong
hầuhết các phươngngữ tiếngHán và tiếngViệt. Giốngnhư vềmặt dòngmáu sắctộc, càng
tiến về phươngNam, yếutố "Hán-phươngBắc" loãngdần và yếutố "bảnđịa-phươngNam"
đậmlên. Cách sửdụng từvựng ở miềnBắc Việtnam chođến ngàynay vẫncòn bị ảnhhưởng
tiếngHán, cả cổđại và hiệnđại, mộtcách mạnhmẻ trongkhi tiếng miềnNam biếnâm và
kếtnạp nhiều ngữtố bảnđịa, thídụ "lợn" (HánViệt "độn") đốilập với "heo" (HV
"hợi"), ngan | ngỗng, giời | trời, giăng | trăng, bố | tía, mợ | mẹ, xơi | ăn,
tiểu | đái, đéo | đụ ... chodù trong tiếngNam vẫn còn lưugiữ những âmvị cổ
như Việt
| "Jiệt", vô | "dô"... Đồngý là sốđếm "một" đến "năm" trong tiếngViệt đồngnguyên
với các thứ tiếng Mon-Khmer, nhưng khôngcó ôngTây nào biết "bánhchưng",
"bánhdày", "dưahấu", "đậuphụng", "bắp", "chảlụa", "ruốc"... đều
đồngnguyên với tiếngHán. Câuhỏi đặtra ởđây là nếu trên 90 phầntrăm từvựng trong tiếngViệt
có mốiquanhệ trựctiếp với tiếngHán, thànhphần dânViệt cóphải có cùng tỷlệ? Nhiều
chủngtộc khác trên thếgiới ngàynay như là ngườiẤnđộ, ngườiChâuMỹLatinh, như
ngườiTàu và ngườiViệt hiệnđại (tôi cốý lặplại ởđây), đều có nguồngốc hợpchủng!
Tôi và bạn và những ngườiViệtnam ngàynay chỉ khácnhau ởchỗ là tổtiên của
mỗingười trong chúngta dicư đến nơinầy trước và sau mà thôi, giốngnhư dân của
Hợpchủngquốc Hoakỳ vậy. Người mà ta chínhthức gọilà "Hoakiều" hay "ngườiHoa" là
những người có tổtiên mới đến từ Tàu thờigian saukhi TriềuMinh bênđó bị
NhàMãnThanh thôntính. Mộtvài thếhệ nữa, những ngườiHoa này sẽ trởthành
ngườiViệtnam hoàntoàn, haynóiđúnghơn, một ngườiTàu Việtnam, hoặclà "ngườiViệt
gốcHoa", giốngnhư bênMỹ họ gọi "ngườiMỹ gốcHoa", "ngườiMỹ gốcViệt", và thếhệ
thứhai thứba sinhđẻ ở Mỹ sẽ đơngiản gọilà ngườiMỹ. Giốngnhư lời bànluận của anh
NTK về sựhìnhthành của nướcMỹ và ngườiMỹ, thuở bansơ bắtđầu từ dânAnh dicư
nổilên làmcáchmạng dành độclập. Thựctế là ngườiMỹ
thuởbanđầu là ngườigốcAnh và saukhi họ giànhđược độclập nướcAnh và ngườiAnh
vẫnlà ngườiđồngminh tựnhiên của họ. Mộttrongnhững lýdo là điềukiện địalý xaxôi,
ĐếquốcAnh không vóitay tới Mỹ được để thuộcđịahoá lầnnữa.
Và nướcnầy vẫncòn đang trong tiếntrình
trưởngthành để trởthành một nước hợpchủng đúngnghĩa. Nếu ta cứ giảdụ rằng những ngườiMỹ đếntrước
là ngườidavàng, thì thựcthể chủngtộc sẽ khôngcòn sựphânbiệt nàonữa, ychang như
sự cấuthành thànhphần dântộc Hán hay Việtnam. Tôi đưa sựkiện hìnhthành nước
Hiệpchủngquốc Hoakỳ, nhưng chưatới 300 năm, để chúngta dễdàng nhậnthấy dânHán ởbên
Trungquốc ngàynay là một tổngthể hợpchủng "hiệpchủngquốc" đãcó và hìnhthành
trongsuốt hơn 5000 năm (NhàÂn bị nhàHạ tiêudiệt, nhàThương lấy nhàHạ, nhàChâu hạ
nhàThương, rồi nhàChâu bị suyyếu trong thời "Xuânthu chiếnquốc", nhàTần hùngmạnh
lên diệt nhàChâu ("Đôngchu liệtquốc") tómthu thiênhạ -- đasố là dân có nguồngốc
BáchViệt -- rồi bị nhàHán tiêudiệt, Hánhoá tấtcả dân các nước xong họ tiếptục
bànhtrướng xuống phươngNam. Dođó ta thấy dânHán tứclà cáitổngthể hoàhợp đó, là
cái "tạppínlù" nátnhứ chínrục từ cái nồisúp với mọithứ raucỏ thịtthà trongđó.
Phảinói đâylà nồi súpde hoặc nốiápsuất mới đúng, thứgì bỏ vào đều bị tanrục:
dânRợ, dânNamman, dânKim, dânMãnchâu, dânMôngcổ, và suýtnữa là dânNhật khi họ
xâmlăng Trungquốc trong thời Đệnhị Thếchiến (chodù họ cógọi là ĐạiĐôngÁ, Xứ Mặttrời
mọc hay lặn haylà cái chichi gì chăng nữa thì cái thànhtố "Hán" vẫn cònđó bấtkể
dưới danhxưng nào. NướcViệt maymắn là Vua Quangtrung không sống đủlâu để thựchiện
giấcmộng lấylại hai vùngđất LưỡngQuảng, nếu thànhcông và ngaycả chodù có thâutóm
cả nướcTàu và gọi nướcnầylà nước ĐạiViệt đichăngnữa thì bảnchất của nó vẫn là
"Hán" như ta đã lặpđilặplại nhiềulần ởtrên. Got the ideas, my buddy? Phải hiểu
lịchsử hìnhthành nướcTàu từxưađếnnay nhưthếnào mới khôngcó những kháiniệm
lệchlạc về ngườiTàu. Dođó ngàynay khi chúngta bànvề ýđồ bànhtrướng với
"chủnghĩađếquốcmới" của Trungquốc, cũng đang nớirộng quađến những nước Phichâu,
ta biếtrằng là trong tâmthức ngườiTàu ("ngườiHán hiệnđại") baogiờ cái ýtưởng
bànhtrướng về phươngNam vẫnlà conđường lýtưởngnhất và cầnthiết để sinhtồn.
Vìvậy, mốiđedoạ "Bắcthuộc kiểutânthời" là một hiệnthực mà Việtnam phải đốiđầu
thườngtrực, nếukhông, 100 năm hay 200 năm nữa xứta khôngchừng sẽ trởthành một
tỉnh của Trungquốc, khôngkhácgì Quảngđông ngàynay. Nhưđãnóitrên, dânQuảngđông
bảnxứ 2200 nămtrước cóthể là cùng gốc với ngườiNùng -- giốngnhư Việt và Mường
vậy -- sau bị "ngườiHán" thốngtrị và Hánhoá nay trởthành "Đườngnhân" haylà "Thòngdành".
Sởdĩ họ thường tựxưng nhưvậy làvì didân từ khắpnơi vào vùng nầy nhiềunhất xảyra
vào đời nhàĐường, tiếngQuảngđông là tiếng biếndạng của tiếngnói từ đời nhàĐường
xâydựng trên cáinền "tiếngNùng cổđại". Trong đám bạn của ta có LVD và HHQ là
người cóthể ngườiQuảng gốcNùng đó, bạnhiền ạ. Tôi khôngnghĩ là có nhiều
ngườiViệtnam hiểurõ nướcTàu và ngườiTàu như tôi đã trìnhbày, ở mỗi thờiđại ngườiHán mỗi khác, và
đasố những cáinhìn hạnhẹp nôngcạn của những tay kỳthịchủngtộc nàynọ chỉ
lặpđilặplại những quanđiểm và cáinhìn của những những tay kỳthịchủngtộc khác. Và
đâylà bàiviết để những ngườiđó hiểu sâuhơn chútnữa nếu họ chịu
suygẫm về những
luậnđịnh của tôi. Nếu không biết địch là gì và cũng chẳng biết ta là ai luôn,
lúc đụngtrận bị thua là cáichắc. dchph SF 5/2010
APPENDIX
Ứng xử ngôn ngữ của người
Việt đối với các yếu tố gốc Hán
• Bùi Khánh Thế
1. Dẫn nhập
1.1. Quá trình hình
thành và phát triển tiếng Việt, xét theo quan điểm giao lưu
(interchange) và tương tác (interaction), là quá trình tiếp xúc
ngôn ngữ (TXNN). Ở thời kì hình thành đó là sự giao lưu
và tương tác giữa các thứ tiếng thị tộc, bộ lạc
hoặc liên minh bộ lạc để hợp thành hạt nhân của
tiếng Việt. Bắt đầu thời kì phát triển, cùng với các
bước lưỡng phân(1),
là những giai đoạn tiếp xúc của tiếng Việt với các ngôn
ngữ ngoại lai - được hiểu như các thứ tiếng ngoài gia
đình ngôn ngữ Nam Á (AA) và Nam Thái (AT) (P.Benedict, 1996).
Ở thời kì phát triển, sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt–Hán
hay Việt–Trung (từ đây gọi chung Việt–Hán) là dài lâu
nhất và hình thái tiếp xúc cũng có nhiều kiểu loại
nhất. (Xem thêm ở phần 2)
1.2. Trong bài viết này
có mấy từ (ngữ) khoá sau đây được sử dụng: tiếp xúc
ngôn ngữ, ứng xử ngôn ngữ, yếu tố gốc Hán. Thuộc
số đó có từ (ngữ) đã quen thuộc, nhưng khi xuất hiện
trong bài viết này một đôi trường hợp mang một sắc thái
hơi khác.
Tiếp xúc ngôn ngữ là
“sự tiếp giao nhau giữa các ngôn ngữ do những hoàn cảnh
cận kề nhau về mặt địa lí, tương liên về mặt lịch
sử xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng người
vốn có những thứ tiếng khác nhau phải giao tiếp với
nhau” (O.S. Akhmanova, 1966). TXNN còn được hiểu là “sự tác
động qua lại giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ tạo nên ảnh
hưởng đối với cấu trúc và vốn từ của một hay nhiều
ngôn ngữ. Những điều kiện xã hội của sự TXNN được
quy định bởi nhu cầu cần thiết phải giao tiếp lẫn nhau
giữa những thành viên thuộc các nhóm dân tộc và ngôn
ngữ do những nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội v.v. thúc đẩy” (V.N.Jarceva, 1990). Với tình hình TXNN
ở Việt Nam, cũng như với một số nước từng có sự xâm
lược và chiếm đóng của một thế lực ngoại quốc, ta còn
có thể thêm vào đoạn dẫn trên: nhu cầu giao tiếp giữa cư
dân bản địa với những người thuộc bộ máy cai trị và
đội quân xâm lược hoặc chiếm đóng ngoại quốc. Trong hình
thái TXNN này, sự ứng xử ngôn ngữ của cư dân bản
địa là vấn đề hết sức tế nhị. Trong nhiều trường
hợp nó làm nổi rõ bản sắc dân tộc của cả một nền văn
hoá.
Ứng xử ngôn ngữ
(Language Treatment) có nội dung khái niệm thuộc lĩnh vực xã
hội ngôn ngữ học. Cách diễn đạt này được xem là tương
đương với Kế hoạch hoá ngôn ngữ (Language
Plan/Planning). Ứng xử ngôn ngữ là sản phẩm của những
quyết định có ý thức về sự lựa chọn mã (code) trong
hoạt động giao tiếp (John Gibbons, 1992 ). Ứng xử ngôn ngữ
mang tính xã hội được thể hiện trong chính sách ngôn
ngữ của nhà nước hoặc một tổ chức xã hội. Chẳng
hạn chính sách ngôn ngữ hiện nay của nhà nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; chính sách ngôn ngữ của Đảng
Cộng sản Đông Dương được thể hiện trong Đề cương
văn hoá Việt Nam năm 1943. Ứng xử ngôn ngữ cũng có
thể là sự lựa chọn của một người về ngôn ngữ mà mình
dùng trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn từ. Sự ứng
xử ngôn ngữ của mỗi người được quy định bởi nhiều
nhân tố vừa khách quan vừa chủ quan, trong đó nhân tố
chủ quan có tính quyết định. Ứng xử ngôn ngữ là một
thành phần về ứng xử văn hoá. Do đó, truyền thống văn
hoá, truyền thống ứng xử ngôn ngữ của cộng đồng,
của dân tộc có ảnh hưởng quan trọng đến thái độ
ứng xử ngôn ngữ của các thành viên trong cộng đồng.
Yếu tố gốc Hán không
chỉ là những từ bắt nguồn từ tiếng Hán xưa nay được
gọi là từ Hán - Việt. Trong bài này yếu tố gốc Hán được
hiểu là tất cả những đặc điểm hoặc thành tố ngôn
ngữ nào mà qua sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt–Hán tiếng Hán
có thể có ảnh hưởng đến tiếng Việt ở mặt này hay
mặt khác. Chẳng hạn các đặc điểm về ngữ âm, đặc điểm
về cấu trúc ngữ pháp, các thành tố từ vựng ngữ nghĩa.
Tuy trong bài viết này các thành tố từ vựng ngữ nghĩa
là ngữ liệu được đề cập đến nhiều hơn, nhưng các
phương diện khác của tiếng Hán cũng sẽ được nhắc đến
khi cần.
1.3. Trong nhiều trường
hợp bài viết sử dụng các dẫn liệu ngôn ngữ rút từ
những công trình đã công bố và được thừa nhận rộng rãi
của các tác giả khác cùng với những ngữ liệu mà người
viết bài này dùng trong các lập luận của mình. Đề cập
đến một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội - ngôn ngữ
học, khi cần thiết chúng tôi cũng đụng chạm đến những
dẫn liệu thuộc các lĩnh vực ngoài ngôn ngữ để làm rõ
thêm cho những lập luận liên quan với hiện tượng nội
tại ngôn ngữ.
2. Tiếp xúc ngôn ngữ Việt–Hán
2.1. Các giai đoạn tiếp xúc và
đặc điểm
Trong khoa học nói đến thời kì
hoặc giai đoạn tức là bàn về sự phân kì có tính lịch
đại (diachronic division of events into periods) về diễn tiến
hay quá trình phát triển của một hiện tượng, một sự
kiện nào đó. Mỗi sự phân kì nhằm vào một/vài mục đích
nhất định và có tiêu chí định hướng cho sự phân kì.
Sự phân kì hiện tượng TXNN dựa vào các hình thái tiếp xúc,
điều kiện xã hội - lịch sử và hệ quả mà sự TXNN
dẫn tới về mặt cấu trúc cũng như về chức năng xã
hội của ngôn ngữ.
2.2. Theo các định hướng
trên đây ta có thể hình dung sự phân chia quá trình tiếp xúc
Việt–Hán thành sáu giai đoạn (hoặc thời kì):
- Giai đoạn hình thành nhà nước
Văn Lang chuyển sang Âu Lạc.
- Giai đoạn Triệu Đà sáp
nhập lãnh thổ Âu Lạc vào Nam Việt.
- Giai đoạn Nam Việt bị Đế
quốc Hán khuất phục và lãnh thổ cũng như cư dân Âu
– Lạc (từ đây gọi một cách quy ước là Việt Nam)(2)
trong cương vực Nam Việt cũng bị đế quốc Hán thôn tính.
Trong chính sử Việt Nam giai đoạn này được gọi là
Thời kì Bắc thuộc.
- Giai đoạn nền độc lập
(trong lịch sử có khi gọi là nền tự chủ) Việt
Nam được khôi phục và xây dựng nhà nước Việt Nam
theo chế độ vương quyền.
- Giai đoạn Việt Nam bị thực
dân Pháp xâm lược và thiết lập chế độ thuộc địa
Pháp trên đất Việt Nam.
- Giai đoạn Việt Nam giành
quyền độc lập từ tay thực dân Pháp cho đến nay.
2.2.1. Có thể xem giai đoạn
hình thành nhà nước Văn Lang (VL) và từ VL chuyển sang nhà
nước Âu - Lạc (ÂL) là khởi điểm quá trình TXNN trên
miền đất Việt thời kì mở cõi, dựng nước này. Đây là
thời kì của các huyền thoại và giả thiết, giống như
ở bất kì dân tộc và đất nước nào trên thế giới. Vì
vậy nơi đây tồn tại nhiều truyền thuyết, huyền thoại
và trên cơ sở đó mà các nhà nghiên cứu đã có những
giả thiết khác nhau về dân tộc Việt Nam hiện nay và về
quá trình hình thành vùng khai nguyên của Việt Nam hiện đại.
Tiếp cận từ lí thuyết TXNN ta có thể hình dung trước
hết đó là quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ bản địa
mà kết quả là sự hình thành của tiếng Việt thời cổ(3).
Tiếp theo đó là sự tiếp xúc với các thứ tiếng đến
từ ngoài vùng đất khai nguyên.
Về mặt này giả thiết mà
K.W.Taylor đưa ra, theo tôi, là đáng chú ý hơn cả. Trong sách
Sự ra đời của Việt Nam, ngay trang đầu chương I, tác
giả đã dựa vào truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân trong
Lĩnh Nam Chích Quái (LNCQ) và Đại Việt sử kí toàn
thư (TT), để giải thích cuộc hôn phối giữa hai nhân
vật huyền thoại này. K.W. Taylor hình dung rằng Lạc Long Quân
là một người dòng dõi đế vương vốn ở phương bắc,
Trung Hoa (A Monarch from the North, China...) từ biển xâm nhập vào
lục địa và khi nhận thấy nơi đây không có vua bèn xưng
vương để cai quản. Nhưng cư dân địa phương không chấp
nhận và nhân vật ngoại bang này buộc phải ra đi(4).
Qua mối liên kết tượng trưng đó ta có thể hiểu: đây là
sự tiếp xúc Việt–Hán đầu tiên trong lịch sử. Có điều
là giai đoạn tiếp xúc này ắt là không lâu bền và chưa
tạo nên tác dụng gì sâu sắc về mặt ngôn ngữ, nếu có.
Cách hình dung như K.W.Taylor, theo
tôi, rõ ràng là có sức hấp dẫn, và cách hiểu dựa vào
sự hình dung ấy là hợp lô gích. Tuy nhiên, tất cả những
điều đó đều thuộc phạm trù huyền thoại và giả
thuyết, gắn với giai đoạn dã sử, phải chờ đợi những
cứ liệu hiện thực chứng minh. Dẫn sao giả thuyết này cũng
gợi cho ta một hướng suy nghĩ lí thú.
2.2.2. Trong lịch sử Việt
Nam giai đoạn Triệu Đà chinh phục và sáp nhập Âu Lạc vào
phạm vi quốc gia Nam Việt rồi chia đất đai Âu Lạc ra làm
hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân được xác định là từ 179
đến 111 TCN. Vốn là con nhà tướng gốc Hán, cuối đời nhà
Tần, Triệu Đà lên thay Nhâm Ngao cầm quyền, rồi khi nhà
Tần bị diệt, tự xưng làm Nam Việt Vương. Việc Triệu Đà
có thể tập hợp để làm chỗ dựa cho quyền lực của mình
những người Hán từ phía bắc di cư vào cương thổ này
(K.W.Taylor, tr.23-24; Phan Huy Lê, 1983, tr.234) chứng tỏ số lượng
cư dân gốc Hán ở đây đã có một số lượng đáng kể.
Và với tư cách những thành phần cư dân trong cùng phạm vi
quốc gia Nam Việt, dĩ nhiên người dân Âu Lạc có quan hệ
giao tiếp với toàn bộ cư dân của quốc gia này, trong đó
gồm cả bộ phận người Hán. Sự giao tiếp này hẳn là có
giới hạn. Lịch sử Việt Nam ghi nhận. Sứ giả nhà Triệu
tiến hành lập sổ cư dân Giao Chỉ, Cửu Chân... "Giúp
việc sứ giả, có thể có một số quan chức, cả Hán lẫn
Việt” (sđd tr.234). Từ sự kiện đó có thể suy ra, đây là
lần đầu tiên sử sách ghi lại có sự TXNN Việt–Hán. Đặc
điểm của sự TXNN Việt–Hán trong giai đoạn này là nó
được gộp trong bối cảnh tiếp xúc chung với các ngôn
ngữ trong “quốc gia li khai” Nam Việt, ở đó bao gồm các
ngôn ngữ của các dân tộc thuộc Bách Việt. Tiếng Hán lúc
này một mặt là ngôn ngữ của giới cầm quyền và mặt khác
là tiếng nói của một nhóm dân di cư từ phương bắc
tới. Sự cai trị của nhà Triệu chưa kịp đụng chạm
nhiều đến cơ cấu xã hội Âu Lạc trước đó. Do vậy
ảnh hưởng ngôn ngữ qua sự tiếp xúc có tính đa hướng hơn
là song phương Việt–Hán và chưa sâu sắc mấy.
2.2.3. Giai đoạn từ khi
Nam Việt bị đế quốc Hán khuất phục trở đi trong sự phân
kì của các tác giả khác nhau có cách gọi không giống nhau
đối với phần lãnh thổ và cư dân trước đây thuộc Âu
- Lạc. Với mục đích nghiên cứu của mình, tôi tán thành
cũng như dùng theo cách phân kì của John DeFrancis và gọi
chung là giai đoạn Bắc thuộc.
Đặc điểm của giai đoạn TXNN
Việt–Hán này về mặt văn tự và tiếng nói đã được
John DeFrancis và Nguyễn Tài Cẩn chỉ rõ (Mặc dù Nguyễn Tài
Cẩn chỉ giới hạn “vào khoảng các thế kỉ 8,9”, TLTK
đã dẫn, tr.8. H Maspéro chỉ ghi chung là trước thế kỉ
10). Một đặc điểm khác về chính trị – xã hội nên
được lưu ý là giai đoạn này không phải diễn ra xuyên
suốt, mà bị cách quãng bởi hai cuộc khởi nghĩa, đánh đuổi
quân xâm lược giành lại quyền độc lập.
1. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
và Hai Bà Trưng lên ngôi các năm 40-43 Công nguyên.
2. Cuộc khởi nghĩa Lí Bí và
sự thành lập nhà nước Vạn Xuân (542-602) Giai đoạn này
chính sách Hán hoá của phương bắc ngày càng được đẩy
mạnh và được các quan thái thú thực hiện chính sách đó
triệt để tại miền đất họ chiếm đóng. Số lượng người
Hán ở đây không chỉ có các quan chức trong bộ máy cai
trị, đội quân chiếm đóng, mà cả gia đình con em của
họ. Ngoài ra còn có lớp người Hán theo chính sách di dân cũng
lần lượt kéo đến định cư nơi đây. Họ bao gồm những
người lao động thường, người có tay nghề thuộc các
nghề nghiệp khác nhau. Dù hình thái cư trú trên miền đất
cùng chung sống này là thế nào (biệt lập của người Hán,
kề cận với các đơn vị hành chánh cư dân Việt, hay có
mức độ sống xen kẽ nhất định) thì cũng đều phải có
sự giao tiếp Hán – Việt. Chính do đó mà sự TXNN Hán –
Việt trở nên ngày càng sâu sắc hơn. Hệ quả của sự
TXNN này là trong sinh hoạt ngôn ngữ và trong đời sống xã
hội hình thành tình thế các cộng đồng Hán di cư đến
kết giao với các cộng đồng cư dân bản địa, tạo nên hình
thái song ngữ song văn hoá Việt–Hán.
2.2.4. Các giai đoạn tiếp
theo của quá trình tiếp xúc Việt–Hán, tuy cách gọi của
John DeFrancis có ít nhiều không giống với những sự phân kì
của H.Maspéro, Nguyễn Tài Cẩn, D.J.Whitfield, nhưng ở ông các
nhận xét về trạng huống ngôn ngữ và văn tự hầu như không
có gì khác. Trạng huống đó vào thời kì Bắc thuộc (111
TCN đến 939 CN) là trong xã hội Việt Nam có hai ngôn ngữ
Việt và Hán, và một văn tự là chữ Hán hoạt động trên
mọi lĩnh vực giao tiếp. Kế đến là:
1/ Giai đoạn độc lập, xây
dựng chế độ vương quyền (939-1651) Hai ngôn ngữ: Việt và
Hán
Hai hệ thống văn tự: chữ Hán
và chữ Nôm Chữ Hán được tiếp tục sử dụng với hình
thức Hán – Việt. Xây dựng chữ Nôm theo loại hình chữ
ghi ý (ideographic).
2/ Giai đoạn độc lập dưới
chế độ vương quyền và có một bộ phận cư dân theo công
giáo (1651-1861)
Hai ngôn ngữ: tiếng Việt và
tiếng Hán
Ba hệ thống văn tự: chữ Hán
– Việt, chữ Nôm và chữ La tinh hoá, tức là dùng hệ
chữ viết La tinh ghi tiếng Việt.
3/ Giai đoạn trở thành thuộc
địa Pháp (1861-1945)
Ba ngôn ngữ: tiếng Việt,
tiếng Hán và tiếng Pháp
Bốn hệ thống văn tự: chữ Hán–Việt,
chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.
4/ Giai đoạn độc lập dân
tộc, từ 1945 đến nay
Một ngôn ngữ: tiếng Việt
Một văn tự: chữ Quốc ngữ.
(John DeFrancis, xem
phần Mục lục)
Điều đáng nhấn mạnh là, tuy
mức độ có khác nhau, nhưng sự TXNN Việt–Hán vẫn tiếp
tục ở tất cả các giai đoạn đã nêu. Trên cơ sở đó mà
chúng ta có thể thảo luận về thái độ ứng xử ngôn
ngữ của các thế hệ người Việt Nam qua các giai đoạn
lịch sử TXNN.
3. Thái độ ứng xử ngôn ngữ
của người Việt
3.1. Không giống như
một số quốc gia hoặc dân tộc khác, thái độ ứng xử ngôn
ngữ của các thế hệ người Việt không bị ảnh hưởng
của chính sách do bộ máy cai trị của thế lực chiếm đóng
ngoại bang hoặc tâm lí dân tộc cực đoan. Ngược lại,
theo ý chúng tôi, thái độ ứng xử đó được chi phối
bởi tiềm thức về nhu cầu giao tiếp xã hội. Tiềm thức
này ngày càng tăng do thực tiễn giao tiếp xã hội cho thấy
giá trị đích thực của các yếu tố gốc Hán, nói chung là
tiếng Hán, chứ không phải do sự áp đặt, ép buộc từ
một chính sách của lực lượng chiếm đóng.
3.2. Ứng xử ngôn
ngữ đầu tiên của người Việt được quy định, có thể
nói, một cách khách quan bởi nhu cầu giao tiếp với lớp người
Hán di cư vào đất Việt. Trong Sự ra đời của Việt Nam,
K.W. Taylor tỏ ra khách quan khi có nhận xét đại ý: Không
phải tất cả người Hán di cư đến miền đất Âu Lạc trước
đây đều thuộc tầng lớp quan quyền. Nhiều di dân là lính
tráng (ở lại sau khi mãn hạn lính), những người lao động
bình thường, những người thợ có tay nghề. Tầng lớp di
dân ở vị trí xã hội thấp này có xu hướng kết nhập
với giới xã hội người Hán còn ở lại làm ăn sinh sống
sau cuộc hành quân Mã Viện. Nhiều người Hán di cư có xu hướng
kết hợp giá trị Hán chính thống của họ với các đặc
điểm xã hội tại chỗ. Điều này được thể hiện trên
thực tế bằng các cuộc hôn nhân hỗn hợp và các hoạt động
của người Hán di cư với tư cách đại diện cho cộng đồng
từng khu vực trong các cuộc khởi nghĩa địa phương nổ ra
vào thế kỉ thứ hai.
Hoàn toàn có lí khi cho rằng người
Hán di cư dần dần trở thành các thành viên thuộc xã hội
tại chỗ. Họ gầy dựng cuộc sống của riêng mình theo mô
thức văn hoá Hán. Họ mang đến Việt Nam vốn từ ngữ và
kĩ thuật Hán, nhưng họ phát triển tất cả theo quan điểm
riêng, dựa rất nhiều vào di sản thuộc miền đất họ đến
sinh sống. Tiếng Việt tiếp tục tồn tại, và lẽ đương
nhiên là sau một vài thế hệ, con cháu người Hán di cư nói
tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong giao tiếp. Xã hội Việt
Nam lúc bấy giờ, có thể nói, hầu như tách biệt hoàn toàn
với văn minh Hán, và xã hội Hán–Việt tồn tại như một
chi thể của thế giới văn hoá tự trị. Người Hán di cư
trải qua quá trình “Việt Nam hoá” một cách có hiệu
quả hơn (more effectively) là người Việt Nam bị Hán hoá
(John DeFrancis, p.53).
Về phần mình, ngoài sự giao
tiếp và quy hợp ở các tầng lớp dưới của xã hội,
một số nhân vật ở tầng lớp trên do yêu cầu của hoàn
cảnh hoặc chức trách, cũng có thể do chủ động, tiếp xúc
ngày càng sâu bền hơn với ngôn ngữ, văn tự và nói chung
là văn hoá Hán. Đó là khi các Thái thú Hán, bắt đầu từ
Sĩ Nhiếp, cho mở trường dạy học. Đầu tiên người học
ở các trường này chủ yếu là con em quan chức Hán, kế đó
trường cũng dần dần thu nhận thêm viên chức Việt; và
cuối cùng con em các gia đình Việt khá giả cũng được đến
học. Từ cơ hội ấy mà dần dần hình thành tầng lớp trí
thức Việt xuất thân từ Hán học, trong số này đã có
những nhân tài xuất hiện. Và “Như thế nhân tài nước
Việt cũng được tuyển dụng như người Hán, mở đầu là
Lí Cầm, Lí Tiến” (Dẫn theo bản dịch tiếng Việt: Đại
Việt sử kí toàn thư, Hà Nội, 1983, tr.182) (5).
3.3. Sau thời Bắc
thuộc, sang giai đoạn tự chủ xây dựng chế độ vương
quyền của mình, các triều đại phong kiến Việt Nam dùng
tiếng Hán–Việt, chữ Hán như ngôn ngữ và văn tự văn hoá
đương nhiên của Việt Nam. Dấu chỉ của thực tế đó là
những văn kiện chính thức hoặc huyền thoại, cắm mốc
cho các sự kiện lịch sử, đều bằng tiếng Hán–Việt và
ghi lại bằng chữ Hán: Chiếu dời đô của Lí Thái
Tổ, bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang vọng trên bờ
sông Như Nguyệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo,
và Bình Ngô đại cáo và Quân trung từ mệnh tập
dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi thời Lê. Trong lĩnh vực
phục hưng nền văn hoá dân tộc tiếng Hán–Việt và chữ
Hán là công cụ để ông cha ta thời Lí – Trần xây dựng
cả một gia tài văn học chữ Hán đồ sộ. Nền giáo dục
cổ điển Việt Nam bắt đầu từ triều Lí (1076) cũng được
xây dựng theo mô hình Nho học, ngôn ngữ dùng trong giáo
dục cũng là tiếng Hán–Việt và chữ Hán. Các học quan,
thày dạy đều xuất thân từ Hán học. Nền giáo dục này
góp phần chủ yếu đào tạo nên các thế hệ trí thức
hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống một quốc
gia độc lập thời phong kiến Việt Nam tồn tại mãi đến
triều Nguyễn.
Nếu khảo sát hệ thống từ
ngữ dùng trong quá trình xây dựng chế độ phong kiến
Việt Nam – từ tên gọi các cơ chế tổ chức, hệ thống
quan chức, hệ thống luật pháp v.v. – ta có thể thấy số
từ ngữ Hán–Việt chiếm phần lớn. Đó cũng là tình hình
trong lĩnh vực khoa học quân sự, lĩnh vực kinh tế và
nhiều ngành khoa học xã hội khác. Nói tóm lại trong giai đoạn
này tiếng Hán và chữ Hán là ngôn ngữ và văn tự của
nền hành chánh và của giới trí thức Việt Nam giống như
tiếng Hi lạp và La tinh đối với xã hội Châu Âu thời kì
tiền hiện đại. Trong quá trình đó người Việt Nam vừa
sử dụng vừa chọn lọc từ vốn từ ngữ vay mượn ấy để
làm phong phú cho ngôn ngữ và văn hoá của mình.
3.4. Một trong những
biểu hiện thành công của quá trình tiếp biến văn hoá và
TXNN Việt–Hán là sự xây dựng chữ Nôm Việt Nam (khoảng
thế kỉ 13). Từ thành công đó một nền văn học Hán–Nôm
ra đời tiếp tục giai đoạn văn học cổ điển sáng tác
chỉ bằng tiếng Hán–Việt và chữ Hán. Các nhà văn hoá
Việt Nam xuất thân từ Hán học là tác gia lớn, vừa có tác
phẩm bằng tiếng Hán–Việt, chữ Hán, vừa sáng tạo
những kiệt tác bằng tiếng Việt và chữ Nôm như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu... Họ
cùng với đông đảo tác giả khuyết danh của các truyện
thơ Nôm làm phong phú cho kho tàng văn chương chữ Nôm, góp
phần chung vào dòng văn học Hán–Nôm xuất hiện từ thế
kỉ 15 trở đi. Hiện tượng văn hoá ấy là một bước phát
triển mới của thái độ ứng xử ngôn ngữ đúng đắn ở
người Việt Nam.
3.5. Có chữ Nôm,
rồi chữ Quốc ngữ được chế tác và được điển chế
hoá dần bằng các từ điển, sách ngữ pháp(6),
số người biết chữ Quốc ngữ ngày càng tăng, đầu tiên
là trong giáo dân, trong nhà thờ công giáo. Tiếp đến là các
viên chức trong bộ máy của chính quyền thuộc địa. Từ
đầu thế kỉ 20 chính quyền thuộc địa có quyết định bãi
bỏ nền giáo dục cựu học. Hệ thống giáo dục tân học,
tức theo mô hình hiện đại Tây phương được thiết lập
từng bước trên toàn cõi Việt Nam. Giới trí thức tân
học Việt Nam lần lượt tăng lên về số lượng và chất
lượng và dần dần chiếm ưu thế trong xã hội. Không
phải ngẫu nhiên mà đã có lời than:
Nào có
ra gì cái chữ Nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co...
Nhưng nhìn vào tầng sâu của văn
hoá xã hội Việt Nam thì không phải như vậy. Những trí
thức cựu học như Nguyễn Lộ Trạch, Trần Quý Cáp, Lương
Văn Can, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh...
vẫn là những đại thụ về mặt tinh thần trong xã hội.
Chữ Hán, tiếng Hán vẫn tiếp tục được các vị ấy sử
dụng để trước tác nhằm giáo dục tinh thần yêu nước
của đồng bào (Hải ngoại huyết thư), bàn thảo về
những điều làm cho dân giàu, nước mạnh (Thiên hạ đại
thế luận), bảo vệ nền văn hoá dân tộc.
Trong quá trình tiếp nhận nền
giáo dục theo kiểu mới để xây dựng nền khoa học kĩ
thuật cho mình các trí thức tân học, cũng không phải vì
thế mà bỏ quên vốn quý có nguồn gốc Hán. Tiêu biểu cho
thái độ ứng xử ngôn ngữ này là cố GS. Hoàng Xuân Hãn
với đề nghị của ông nên “lấy gốc chữ Nho” làm
một trong ba “phương sách đặt danh từ khoa học”. Phương
sách ấy hiện nay vẫn còn nguyên giá trị và trở thành
một trong những quy tắc xây dựng thuật ngữ khoa học kĩ
thuật đang phát triển rất nhanh chóng ở nước ta và khoa
học kĩ thuật Việt Nam ngày càng tiếp cận nhiều với khoa
học kĩ thuật qua các ngôn ngữ Ấn - Âu.
3.6. Về thái độ
ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu
tố gốc Hán, nhân vật văn hoá tiêu biểu nhất là chủ
tịch Hồ Chí Minh của chúng ta. Trên cơ sở của truyền
thống văn hoá Hán học của gia đình, Người bước vào
lịch sử hấp thụ thêm nguồn học vấn phương Tây, tích
luỹ sự hiểu biết từ tinh hoa của nhiều dân tộc, nhiều
đất nước trên bước đường hoạt động cách mạng.
Dầu vậy, trong quá trình tiếp thu những bài học cách
mạng từ Người, những lời giáo huấn của Người, và
nhất là đọc các tác phẩm trong di sản của Người, chúng
ta luôn luôn cảm nhận được qua vốn văn hoá đa dạng đó,
tinh hoa văn hoá, tinh hoa ngôn ngữ Hán được Người tinh
lọc, tiếp biến thành các giá trị Việt Nam. Trong tù Người
viết Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù). Người dùng
danh ngôn, tục ngữ Hán khi trao đổi ý kiến với các bậc
đại nho Việt Nam. Trong kháng chiến Người cũng đã có
những bài thơ tuyệt tác viết bằng chữ Hán. Thái độ
ứng xử ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các
yếu tố gốc Hán là lĩnh vực có ý nghĩa khoa học lớn, vượt
ngoài khuôn khổ bài viết nhỏ này và phải là một đề tài
nghiên cứu riêng.
________________
(1)
Trong bài Thử phân kì lịch sử thế kỉ 12 của tiếng
Việt; tác giả Nguyễn Tài Cẩn viết: “Tiếng Việt có
một lịch sử chỉ khoảng hơn 12 thế kỉ. Sự hình thành
tiếng Việt là một kết quả của 2 bước lưỡng phân,
một trước, một sau. Bước lưỡng phân đầu là bước
chia ngôn ngữ mẹ Proto – Việt – Chứt thành hai nhánh: nhánh
Việt – Mường ở phía bắc và nhánh Pọng – Chứt ở phía
Nam... Ảnh hưởng của tiếng Hán không những mạnh ở Bắc
hơn Nam mà ở đồng bằng sông Hồng cũng mạnh hơn ở
miền núi. Do đó lại nảy sinh một bước lưỡng phân thứ
hai bắt đầu từ khoảng thế kỉ 18, tạo ra sự đối lập
giữa hai ngôn ngữ mới, một bên là Proto Việt, một bên là
Proto Mường" (N.T.Cẩn, 1998, tr.7)
(2)
Trong lịch sử, tuỳ từng thời kì lịch sử tên gọi chỉ
nước Việt Nam hiện nay có sự thay đổi Giao Châu, Giao
Chỉ, Đại Cồ Việt, Đại Việt... Tên gọi Việt Nam về
sau mới xuất hiện. Tuy nhiên, để tiện cho việc trình bày,
trong bài này chúng ta có thể lấy tên gọi Việt Nam mà
hiện nay đang dùng để đại diện chung cho tất cả các tên
gọi có trước, nếu không có nhu cầu phân biệt chính xác.
Thảo luận về đề tài này, chúng
tôi sử dụng các công trình của một số tác giả. Ở
những công trình đó, căn cứ vào những chỗ dựa ít
nhiều khác nhau, các tác giả đã đề nghị cách phân kì
tuỳ theo sự tiếp cận của mình.
I. Dựa vào sự hình thành
tiếng Hán–Việt, cuốn An Nam dịch ngữ và cuốn từ
điển Alexandre de Rhode (1651), H.Maspéro chia thành:
A) Proto Việt trước thế kỉ 10
B) Việt tiền cổ: thế kỉ 10
(hình thành tiếng Hán - Việt)
C) Việt cổ: thế kỉ 15 (An Nam
dịch ngữ)
D) Việt trung đại: thế kỉ 17
(từ điển A.de Rhôde 1651)
E) Việt hiện đại: thế kỉ 19
(Dẫn lại theo Nguyễn Tài Cẩn,
1998, tr.8)
II. Dựa vào thế tương tác
giữa các ngôn ngữ, văn tự có sự tiếp xúc với nhau trong
mỗi giai đoạn N.T.Cẩn (1998) có bảng phân kì:
A) |
Giai đoạn Proto Việt |
Có 2 ngôn ngữ: tiếng Hán
(khẩu ngữ của lãnh đạo) và tiếng Việt; 1 văn
tự: chữ Hán |
Vào khoảng các thế kỉ
8, 9. |
B) |
Giai đoạn tiếng Việt |
Có 2 ngôn ngữ: tiếng
Việt (khẩu ngữ của lãnh đạo) và văn ngôn Hán;
1 tiền cổ văn tự: chữ Hán |
Vào khoảng các thế kỉ
10,11,12 |
C) |
Giai đoạn tiếng Việt
cổ |
Có 2 ngôn ngữ: tiếng
Việt và văn ngôn Hán; 2 văn tự: chữ Hán và chữ
Nôm |
Vào khoảng các thế kỉ
13, 14, 15, 16 |
D) |
Giai đoạn tiếng Việt
trung đại |
Có 2 ngôn ngữ: tiếng
Việt và văn ngôn Hán; 3 văn tự: chữ Hán và chữ
Nôm và chữ Quốc ngữ |
Vào khoảng các thế kỉ
17, 18 và nửa đầu thế kỉ 19 |
E) |
Giai đoạn tiếng Việt
cận đại |
Có 2 ngôn ngữ: tiếng Pháp,
tiếng Việt và văn ngôn Hán; 4 văn tự: Pháp, Hán,
Nôm, Quốc ngữ |
Vào thời gian Pháp
thuộc |
G) |
Giai đoạn tiếng Việt
hiện nay |
Có 1 ngôn ngữ: tiếng
Việt; 1 văn tự: chữ Quốc ngữ |
Từ 1945 trở đi |
III. John DeFrancis (1977) trong Colonialism
and Language Policy dựa vào sự thể hiện chính sách ngôn
ngữ từ 111 TCN trở đi chia sự phát triển tiếng Việt thành
4 giai đoạn với các đặc điểm về trạng huống ngôn
ngữ và văn tự khác.
IV. Keith W.Taylor (1983) trong sách The
Birth of Vietnam, tuy không trực tiếp đề cập đến sự
phân kì về quan hệ tiếp xúc Hán - Việt nhưng những cứ
liệu của tác giả này về thời kì hình thành Việt Nam trước
khi bị đế quốc Hán xâm chiếm và đặt ách thống trị cũng
có nhiều cứ liệu và ý tưởng soi sáng cho sự tiếp xúc
ngôn ngữ Việt–Hán.
(3).
Cách dùng “tiếng Việt thời cổ” ở đây được hiểu
như tiếng nói của “người Việt Cổ” (L.sử I) về hạt
nhân đầu tiên của tiếng Việt hiện đại mà ngành ngôn
ngữ học lịch sử Việt Nam chưa có những công trình nghiên
cứu vượt khỏi các giả thuyết.
(4).
Theo Taylor, qua huyền thoại Âu Cơ–Lạc Long Quân ta có thể
biết về quan niệm trong dân gian xưa về quan niệm huyết
thống giữa các vua Hùng và Lạc Long Quân (LLQ). LLQ từ phía
biển thâm nhập vào đồng bằng sông Hồng. Đến đây LLQ
chế phục “các yêu quái” trong miền rồi khai hoá họ,
dạy họ trồng trọt, bắt đầu biết ăn mặc. Sau đó trở
về biển cả và dặn lại rằng khi nào gặp nguy khó thì hãy
lên tiếng và LLQ sẽ trở lại… Rất có thể Lạc Long Quân
là hoàng tử xứ biển cả và Âu Cơ là một Mị Nương
của vùng núi đồi. Khi Lạc Long Quân ra đi, Mị Nương ở
lại và sinh hạ các vua Hùng. Người Việt Nam đời nối đời
xem Lạc Long Quân và Âu Cơ là tổ tiên của mình.
Taylor viết tiếp: Huyền thoại
bao quanh câu chuyện Lạc Long Quân và Hùng Vương ngụ ý về
một nền văn hoá từ đất liền hướng ra phía biển. LLQ là
nhân vật văn hoá mang nền văn minh đến từ biển. Nhân
vật này chạm trán với quyền lực từ đất liền, liên
kết với đối thủ ấy bằng một cuộc hôn nhân và cuối
cùng kẻ vốn là đối thủ trở thành mẹ của người
thừa kế mình. Chủ đề về nhân vật văn hoá bản địa có
cách ứng xử để vô hiệu hoá sự đe doạ từ phương
bắc bằng cách dung hợp cội nguồn chính thống của nền văn
minh ấy cũng phù hợp với mối quan hệ lịch sử giữa
Việt Nam và Trung Quốc (K.W.Taylor, 1977, tr.1).
(5)
Lí Cầm là người Giao
Châu, đậu tiến sĩ, làm quan đến Tư lệ hiệu uý. Lí
Tiến đậu tiến sĩ, là người Giao Chỉ đầu tiên giữ
chức thứ sử năm 187 CN, dưới triều Hán.
(6)
Cuốn Từ điển
Việt–Bồ–La, có phần giới thiệu về cơ cấu tiếng
Việt ở đầu sách do A.de Rhode biên soạn và ấn hành năm
1651 là công trình đầu tiên. Từ đó dần dần loại sách này
ngày càng xuất hiện nhiều hơn để cung ứng cho nhu cầu
học chữ Quốc ngữ, học tiếng Việt.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
- O.S. Akhmanova (1969). Từ
điển thuật ngữ ngôn ngữ học (bằng tiếng Nga).
Nxb Từ điển Bách khoa Xô viết Moskva.
- Paul Benedict (1996). Interphyla
Flow in Southeast Asia, In Proceeding of the Forth.
International Symposium on Languages and Linguistics. 8 - 10, 1996.
Vol. V, pp.1579-1590.
- Bùi Khánh Thế (2000). Tiếp
xúc ngôn ngữ Việt - Hán và hệ quả tích cực của quá
trình đó đối với sự phát triển tiếng Việt. Kỉ
yếu Hội thảo Việt–Trung.
- John DeFrancis (1977). Colonialism
and Language Policy in Vietnam. Monton Publishers - The Hague,
Paris. New York.
- John Gibbons (1992). Sociology
of Language. In International Encyclopedia of Linguistics,
Vol.4, pp.22-24, William Bright (Editor in Chief).
- Hứa Tuyên (1994). Sơ
lược về việc sử dụng chữ Hán ở Việt Nam và Đông
Á.
- V.N.Jarceva (chủ biên,
1990). Từ điển bách khoa về ngôn ngữ học (bằng
tiếng Nga). Nxb Từ điển Bách khoa Xô Viết Moskva.
- Nguyễn Đình Đầu
(1997). Công lao của G.S Hoàng Xuân Hãn trong quá trình xây
dựng và hoàn chỉnh nền quốc học nước ta bằng chữ
quốc ngữ và tiếng Việt. Trong Kỉ yếu Hội nghị
khoa học: Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng
xã hội của tiếng Việt, tháng 3/1997, tr.174-184.
- Nguyễn Tài Cẩn (1998). Thử
phân kì lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt. Tạp
chí Ngôn ngữ, số 6/1998, tr.7-12.
- Tập san khoa học,
A.Annals of HCM University, số 1/1994.
- Keith Weller Taylor (1983). The
Birth of Vietnam. University of California Press, Berkeley, Los
Angeles - Oxford.
- Danny J.Whitfield (1976). Historical
and Cultural Dictionary of Vietnam. The Scarecrow Press, Inc.
Metuchen, N.J.
Theo Tập san khoa học Trường
ĐHKHXH&NV (ĐHQG TP. Hồ Chí Minh), số 38 (2007), trang
3–10.
|