Trítuệ
Việtnam
Nguyễn Cường
Trongkhoảng thờigian chừng 10 năm trởlạiđây, khi sosánh những
consố thốngkê về khoahọc và giáodục, Việtnam vẫn kém hơn
nhiều nước lánggiềng trong khối ASEAN. Đólà lýdo báochí trongnước
bắtđầu tổchức thiđua “Trítuệ Việtnam” hàngnăm, với
phongtrào khuyếnhọc xuấthiện ở hầuhết các điạphương. Đixahơn,
còn thấy có xuấthiện những đềtài kíchđộng đến tựái dântộc
cũng được cho lên diễnđàn mạng của các báo điệntử, để cùng
đọcgiả thảoluận côngkhai, nhưlà: “NướcViệt lớn hay nhỏ?”;
“Xâydựng đạihọc đẳngcấp quốctế tại VN”, v.v.
Thựctế chothấy, nóiđến “Trítuệ” hay “Thôngminh” là đềtài
rất nhạycảm và tếnhị, khôngchỉ dànhriêng cho một dântộc nào
trên thếgiới. Hầunhư theo tâmlý chung, đasố đều khôngmuốn
tự nhìnnhận mình là dântộc kém thôngminh. Đồngthời, cũng không
thấy có danhnhân nào dám tuyênbố côngkhai là dântộc mình rất thôngminh,
nếu không muốn bị coilà lốbịch! Nhưng đốivới dânViệt nóichung,
thì quảthật là có một ngoạilệ khóhiểu. Hầunhư đasố các
họcgiả ngườiViệt, trong cũng như ngoài nước, đãtừng viết
hay phátbiểu là: “DânViệt mình vốn thôngminh và hiếuhọc!” Khôngbiết
câunói vừarồi cóphải là hậuquả của một ámảnh thườngxuyên
được gọilà Tựkỷámthị ? Nếukhông thì dựatrên cơsở hay
bằngchứng nào để nói nhưvậy?
Theo suyluận thôngthường về khoa phântâmhọc, một khi tiềmthức
bêntrong của conngười bị ámảnh thườngxuyên và tiêucực về
một vấnđề gì, thì cóthể phảnứng chora bênngoài sẽ trởthành
tíchcực hơn. Thắcmắc chính đưara đây là: Có thậtsự dânViệt
thôngminh và hiếuhọc, hay chỉlà một câunói lậplại quenthuộc
để thoảmản tựái dântộc và làm vuilòng đámđông? Trảlời
bằng cáchnàođinữa thì sựthật cũng khôngdễgì chốibỏ được,
và các nhànghiêncứu thường dùng cách giántiếp khác để nóilên
sự “khônngoan” hay “tiếnbộ” của một xãhội tậpthể conngười,
bằngcách đolường mức thịnhvượng hay nănglực sảnxuất
cộngchung lại của xãhội đó.
Cụthể tiêubiểu chính là consố GNP (Gross National Product) hay
tổngsảnlượng hàngnăm của một quốcgia. Dĩnhiên, khôngai cóthể
nói GNP là chỉsố thôngminh trựctiếp của một dântộc, nhưng cũng
khôngai cóthể phủnhận consố GNP là chỉdấu chothấy sự giàusang
và thịnhvượng của một quốcgia, và quantrọng hơnhết, còn
phảnánh một cách giántiếp đến trítuệ của cả một dântộc.
Bàiviết này chỉcó ýđịnh tìmhiểu vấnđề trítuệ của
tậpthể dânViệt nóichung, không chútrọng đến một thiểusố
rất ít những ngườiViệt ngoạihạng với sựthôngminh xuấtchúng.
Nhưng consố vài chục hay vài trăm đó chắcchắn sẽ khôngđủ để
bùđắp vào sựthiếuhụt tàinguyên chấtxám của cả tậpthể hơn
86 triệu dânViệt.
DânViệt có thôngminh không?
Ai cũng cóthể hiểu là bấtcứ dântộc nào trên thếgiới, nếu
đã lậpquốc được và tồntại qua cả ngàn năm lịchsử đến
ngàyhômnay, thì chắcchắn họ phảilà những dântộc có một
sựthôngminh tốithiểu nàođó. Nhưvậy thì câuhỏi trên chỉ cóthể
đặtlại chođúng vào trọngtâm của vấnđề: DânViệt thôngminh
ít hay nhiều nếu sosánh với các dântộc khác đang hiệnhữu trên
thếgiới này?
Có hai tiêuchuẩn chính sauđây để làm cơsở sosánh. Về
vậtchất là khảnăng sảnxuất và làmra được nhiều củacải tàisản
cho quốcgia, giúp nângcao đờisống với nhiều tiệnnghi vậtchất
cho ngườidân trongnước, hay nóicáchkhác là làmcho đờisống nhândân
thêm sungtúc và đấtnước giàumạnh hơn. Tiêubiểu để sosánh
phần vậtchất nóitrên, thì khôngcógì rõrệt hơn là dùng những
dữkiện GNP được phổbiến rộngrãi hàngnăm rấtlà kháchquan và
khoahọc. Tuy cáchtính về GNP của Liênhiệpquốc không hoàntoàn chínhxác,
nhưng cũng phảnánh được phầnnào khảnăng sảnxuất, baogồm
cả laođộng chântay cũng như trítuệ của một quốcgia.
Chođến thờiđiểm 2009 này, Việtnam luôn bị nằmtrong nhóm 60
quốcgia có GNP thấpnhất trên thếgiới. Nóiđúnghơn là lợitức
trungbình hàngnăm của dânViệt thuộcvào phầnba các nước
thấpnhất trong tổngsố hơn 180 quốc gia, kểcả những tiểuquốc
về lãnhthổ hay các thuộcđiạ tựtrị có dânsố không quá
nửatriệu dân.
Về tinhthần, một trong những thướcđo khá chínhxác nhất của
sựthôngminh là khảnăng sángtạo phátminh ra điềugì mớilạ về
khoahọc hay kỹthuật có íchlợi cho xãhội loàingười. Tiêubiểu
nhất cho yếutố trên chính là consố bằngsángchế (Patent)
sởhữu về trítuệ, được tổchức quốctế côngnhận và
cấpcho bấtcứ ai trên thếgiới có sángkiến phátminh ra sảnphẩm
mới và được côngnhận. Cũng theo thốngkê trong các năm vừaqua,
cả Việtnam với hơn 86 triệu dân chỉ sởhữu được vài bằngsángchế,
và có năm chẳng ó cái nào, sovới trungbình là vàichục hay vàitrăm
bằngsángchế ở các nước lánggiềng xungquanh, hay vài ngàn tại các
nước tiêntiến như Nhật, Anh, Mỹ, v.v. cóđược.
Ngay trên bìnhdiện vănchương hay nghệthuật cũngvậy, Việtnam
vẫnchưa cóđược một nhàvăn, hoạsĩ, nhạcsĩ hay triếtgia nào
đưara được một họcthuật mới hay tưtưởng lớn, xứngđáng
tầmvóc quốctế. Ngaycả trong vănchương, với hàngtrăm nhàvăn
trongnước mớichỉ cóđược 1 hay 2 tác phẩm được dịchra
tiếng nướcngoài, nhưng vì nhờ nộidung mang tínhphảnkháng và
chốngđối. Ở nướcngoài với thịtrường vănchương tựdo
chọnlựa còn yếukém hơn rấtnhiều. Hầunhư chưacó tácphẩm vănchương
nào của các tácgiả ngườiViệt đượcchọn để traotặng những
giảithưởng quốctế.
Còn có chỉdấu nào khác, chínhxác và đúng hơn, để làm thướcđo
trítuệ của một dântộc?
DânViệt có hiếuhọc không?
Câu trảlời thànhthật và ngaythẳng là đasố dânViệt chỉcó
cốgắng hết sứcmình, học để thiđậu và lấyđược bằngcấp
cho có danhvọng và đủ để làmgiầu hay kiếmăn thôi. Ngoàira nóichung,
dânViệt ít có tinhthần hiếuhọc hay tựguyện họchỏi để
mởmang kiếnthức. Thử lấy một thídụ cụthể nhiều người cóthể
biết và kiểmchứng được về nhucầu đọcsách của dânViệt.
Theo nhậnxét thôngtin của một tríthức ở Việtnam có quanhệ
với hội nhàvăn chobiết, một đầusách xuấtbản ở Việtnam chodù
tácgiả khá nổitiếng và có sách bánchạy nhất nước, thì nhàxuấtbản
cũng chỉ dám cho inra nhiềulắm chừng khoảng 1000 cuốn (trừ các
loạisách truyêntruyền theo thờisự hay chínhtrị v.v.). Nhưvậy tínhra
trungbình trong hơn 86 ngàn dân mới có một người bỏtiền mua
một cuốnsách hay để đọc và mởmang kiếnthức!
Chưahết, códịp đi dạochơi trong các thànhphố lớn ở Việtnam,
nếu dukhách muốn kiếm mua một tờbáo để đọc khôngphải là
chuyện dễdàng. Trong các nét dulịch hay các bảnđồ thànhphố hướngdẩn
dukhách ở Việtnam, hìnhnhư khôngcó chổ dànhcho các thưviện trừ
tại vài thànhphố lớn. Thử đểý xem trong các toaxelửa hạngsang,
các chuyếnbay dài xuyênđạidương, các bờbiển hay các chỗ côngcộng
giảitrí, rấthiếmkhi thấy các dukhách ngườiViệt đọc sáchbáo
mà chỉ thấy ăn và ngủ hay không làmgì cả, kểcả nếu có đánhcờ
hay chơi thểthao! Dườngnhư đasố ngườiViệt không coi chuyện đọcsáchbáo
là một thúgiảitrí về tinhthần! Còn nhớ cáchđây khônglâu, có
vị hộiviên nàođó phêbình rằng hội “nhàvăn” của cả nước
Việtnam với hơn 80 triệu dân chỉcó khoảngchừng một ngàn
hộiviên, mà trong đó hơn quá nửa là nhàthơ! Consố thisĩ
Việtnam ở hảingoại cólẽ còn cao hơnnhiều.
Vì nghèo khôngcó tiền mua sách báo để đọc? Câu trảlời cóthể
chấpnhận được nếu ở trongnước, nhưng khôngthể dùng cho
Việtkiều đang sống tại hảingoaị. Thửxem lấy vùng Nam
California, thủđô của dânViệt hảingoại làm thídụ. Ngay tại
trungtâm của dânMỹgốcViệt vùng Santa Ana-Garden Grove-Westminster, còn
gọilà Saìgòn Nhỏ, có hơncả trămngàn ngườiViệt đang sinhsống
với khoảngchừng hơn 80 ngàn thôngthạo tiếngViệt, nhưng có không
quá 3 tiệmsách và chỉ có 2 là đúng theo tiêuchuẩn của một “nhàsách”!
Trongkhiđó ở New York với vài chụcngàn Việtkiều, mayralắm mới
tìmthấy một tiệmsách ở phốTàu, nhưng chủyếu vẫnlà bán
những loạisách dạy học tiếngAnh, hay các bộ tiểuthuyết
kiếmhiệp cũ được inlại của tácgiả Kim Dung!
Ngaycả nếu dùng những consố thốngkê quốcgia của nướcMỹ, chínhxác
và đáng tincậy hơn, ngườiViệt ở hảingoại hiệncó khoảng 300
ngàn chuyêngia khoahọc và kỹthuật (kểcả tính luôn trìnhđộ
trungcấp) trong tổngsố hơn một triệu rưỡi, thì cũng chỉcó
gần 20%. Một consố kháthấp sovới tấtcả ngườiMỹ bảnxứ nóichung(24%)
hay các sắc dân khác (hơn 40%), như ngườiMỹ gốcÁn, gốcPhi hay
Indonesia, v.v. Lợitức trungbình hàngnăm của ngườiMỹgốcViệt
vẫn thấpnhất nếu sovới các sắcdân thiểusố khác (ngoạitrừ
hai sắcdân Lào và Campuchia.)
Nhưng điềuquantrọng trênhết và chung tấtcả cho nhữnggì vừa nói,
chínhlà một báođộng cựckỳ khẩntrương cho những nhàlãnhđạo
giáodục và tríthức Việtnam. Đãcó những dấuhiệu cho thấyrõ,
trítuệ của dânViệt đang bị “tụthậu” dần, nếu sovới các
nước lánggiềng bêncạnh! Cụthể cáchđây vài năm, nếu đem sosánh
mứcđộ thayđổi GNP của các nước lánggiềng và các nước trong
khối ASEAN vớinhau, chothấy Việtnam có mứcđộ thay đổi GNP
chậmnhất sau 16 năm “đổimới” và pháttriển ổnđịnh. Đólà
vào năm 2002.
Nhưng vừa mớiđây saukhi coilại bảng sosánh nóitrên cho năm 2008,
có hai dữkiện khôngkhỏi làm cho ngườiviết phải kinhngạc và bànghoàng:
1) Mặcdù GNP của Việtnam có giatăng đángkể trong vòng 6 nămqua,
Việtnam vẫncó mứcđộ thayđổi GNP chậm sovới đasố các nước
cònlại.
2) Ngaycả hai nước lánggiềng có cùngchung hoàncảnh lịchsử
chiếntranh và khókhân kinhtế, Campuchia và Lào, cũng tiếnnhanh hơn
và gần bắtkịp GNP của Việtnam! Cụthể từ một quốcgia nghèo
có GNP chỉ bằng hơn mộtnửa của Việtnam vào năm 1986, Lào và
Campuchia đã cóthể mang GNP tiếntới gần bằng 80% của Việtnam
trong 2008. Bìnhthường đún ra thì Việtnam phải đạttới mức 80%
này nếu sovới Philuậttân hay chừng 50% của Tháilan, như
Trungquốc đang tiếntới gầnbằng! Đãcó một cáigìđó khôngđược
bìn thường cho Việtnam.
Chẳngcóai ngạcnhiên khi nghe một họcgiả người Singapore đã kiêuhảnh
tuyênbố là Việtnam phải mất gần cả trămnăm nữa thì mayra
mới đuổikịp Singapore! Bởivì sau hơn 20 năm đổimới và
gianhập sânchơi bìnhđẳng trên thếgiới, khoảngcách biệt giữa
GNP của Việtnam ngày càng bị bỏxa bởi các nước lánggiềng đã
thành rồng! Khôngcòn mộtchút hoàinghi nào nữa, ngaycả đasố các
nhàgiáodục, họcgiả hay tríthức trongnước cũng đều có chung
một kếtluận là nền giáodục của Việtnam đang bị bếtắc và
tụthậu rất trầmtrọng nếu sovới các nước trong khối ASEAN.
Từđó cóthể dựđoán mộtcách tươngđối chắcchắn là trítuệ
hay chấtxám của dânViệt đang thậtsự pháttriển chậm sovới các
dântộc khác trên thếgiới. Nếu tìnhtrạng này cứ tiếptục như
hiệnnay và nếukhông có những biệnpháp có tính độtphá để làm
tăngtốc lên trởlại, thì trongvòng tốiđa là 3, 4 thếhệ nữa,
Việtnam sẽ khó giữđược chủquyền quốcgia và chắcchắn sẽ
bị “xâuxé” chiara thành nhiều vùng ảnhhưởng, mộtcách giántiếp
mấtluôn chủquyền chínhtrị vào tay các khuvực quyềnlực tươnglai
của cChâuÁ.
Country GNP 1986 2002 2008 Change (%)
Singapore 6000. 24000. 38900. 643.%
Korea, South 2180. 9400. 19500. 894.%
Maylasia 1700. 3640. 8149. 479.%
Indonesia 560. 680. 2246. 401.%
Philippines 598. 1040. 1866. 312.%
Cambodia 113. 370. 818. 723.%
Lao 90. 310. 840. 933.%
China 258. 890. 3315. 926.%
Thailand 770. 1970. 4115. 535.%
Vietnam 180. 410. 1040. 577.%
(Nguồn – UNDP- 2002-2008)
Nếu dựđoán trên có xảyra đúng thì cũng khôngphải là điềugì
đángngạcnhiên, vì thậtra chỉlà một sựtáidiễn của lịchsử.
Trongvòng hơn hai ngàn năm qua trên mảnhđất hìnhchữ S Việtnam
hiệnnay, đãcó ítnhất 5 vươngquốc bị mấtnước và chủngtộc
của họ cũng gầnnhư suýt bị diệtvong luôn. Đólà Vươngquốc Âulạc
thuộc chủngtộc Việt-Mường; Vươngquốc Cửuchân-Nhậtnam với các
sắcdân thiểusố ThượngLào còn sótlại trên Caonguyên Trungphần;
Vươngquốc Chămpa với các sắcdân Chàm; Vươngquốc Phùnam thuộc
sắcdân Miên, và Vươngquốc Annam thuộc miềnNam Việtnam cũ!
Giảipháp Tốiưu
Trong phần kếtiếp này, thayvì là giảithích những lýdo nào đã
đưa Việtnam vào conđường “tụthậu”. Ngườiviết muốn đithẳng
vào vấnđề của những giảipháp tốiưu, vì tự nó cũng phảnánh
những nguyênnhân chính mộtcách giántiếp. Tấtcả chỉ quyvề hai
tácđộng duynhất là xâydựng bộnhớ thuộc phần vậtchất trong
nãobộ và pháttriển trítuệ theo dòngchính của vănminh loàingười.
Vậtchất (Hardware)
Vấnnạn đầutiên là dânViệt chịu ảnhhưởng nềnvănhoá Đôngphương,
quá chútrọng nhiều về tâmlinh hơnlà vậtchất, dễ đưađến
những hiểunhầm taihại về sựliênhệ giữa trítuệ và vấnđề
ănuống hay khoadinhdưỡng! Cụthể là chỉ trong vănhoá Việt mớicó
những câu khinhrẻ và coithường chuyện ănuống, như: “Miếngăn
là miếng tồitàn...”. Hay “ăn để sống, khôngphải sống để
ăn”, v.v. Đúnglà ăn để sống, nhưng muốn có đờisống tốtđẹp
như thếnào thì lại tuỳthuộc rấtnhiều vào cáiăn! Hậuquả tâmlý
là đasố bị nhậptâm coinhẹ chuyệnănuống, không chútrọng
nhiều về khoadinhdưỡng, nhấtlà khônghiểu rằng có ít nhất 50%
của việc ănuống đónggóp vào sựpháttriển trítuệ của conngười
nóichung. Dù nguyênnhân chính vẫnlà do bị “nghèo và đói” quálâu,
chuyệnăn cho no còn chưa cóđược, nóigìđến kénchọn thứcăn
nhiều chấtdinhdưỡng!
Nếu coi bộ máyvitính giống tươngtự như nãobộ conngười, thì
những gì vừa trìnhbày là phần “hardware” hay “conchíp”, thành
hần trọngyếu sốmột của máytính. Khôngcó “conchíp” thì cũng
khôngcó máyv tính và khôngcó tấtcả! Tươngtự nhưtrên, nếu khôngcó
một thếhệ dânViệt có đầyđũ một sốlượng tốithiểu các
tếbào bộnhớ, gần bằng hay nhiềuhơn các giốngdân khác, thì
chắc mãimãi ViệtNam sẽ khôngcó một hyvọng nào vươnlên thành
rồng hay cọp của Áchâu. Điều nghịchlý là nếu ai códịp đọc
hàngngàn bàiviết của hàng trăm họcgiả ngườiViệt, trong cũngnhư
ngoài nước về chủđề tươnglai của dânViệt, thì hìnhnhư cũng
chỉ thấy nói nhiều về “software” (phầnmềm), các chủđề
về “Cảicách giáodục” hay chấnhưng và thayđổi vănhóa, nhưng
chưahề thấy có bàiviết nào nghiêncứu một cách nghiêmtúc và sâurộng
về khoadinhdưỡng nóichung dànhriêng cho dânViệt!
Giảipháp tốiưu cho hai vấnnạn trên chỉ cóthể thựchiện bởi
nhànước. Bằng các phươngtiện truyềnthông và bộmáy tuyêntruyền,
nhànước cầnphải độngviên giúpđỡ ngườidân cũngnhư
huấnluyện các chuyêngia về khoadinhdưỡng. Đây chỉlà giảipháp
nhằmvào khoảng 10% dânViệt cóđược maymắn ănnomặcđủ và có
đầyđủ phươngtiện tàichánh. Trườnghợp muốn đixahơnnữa cho
toàndân là phảicó một ngânsách dànhriêng hàngnăm để hỗtrợ
cho các chươngtrình trọngđiểm. Bằngcách bổsung thêm một vài
sinhtố và khoángchất cầnthiết trong các loại thựcphẩm cơbản
như gạo, mắm, hay muối, đặcbiệt nhất là các loại thứcănnhẹ
đóng trong baobì hay thựcphẩm dànhriêng cho trẻem. Khôngcógì khó
làm hay khácthường, nếu trong các thúng muốiăn hàngngày của dânViệt,
đặcbiệt có được bổsung thêm một sốlượng nhỏ các khoángchất
cầnthiết như Iốt, vôi (calcium), hay Manhê (magnesium), v.v.
Trênhết và quantrọng nhất là phảicó một chiếnlược quốcgia hàngđầu
dànhcho khoảng 10% dânsố nóitrên. Nhànước cầnphải cấptốc
đưara những khuyếncáo về thựcphẩm dinhdưỡng, những sinhtố và
khoángchất cầnthiết để pháttriển về nãobộ dànhriêng cho ngườidân
ở mỗi địaphương, đến từng đơnvị điạlý nhỏnhất là
quậnhuyện. Cụthể thídụ như tạisao đasố dân các vùng
miềnTrungNam, nhấtlà từ Bình định vào tới Bìnhthuận, thường
bị thiếu nhiều các khoángchất, sắt, và vôi. Lýdo là vì đasố
các consông hay nguồnnước phátxuất rất gần từ dãy Trườngsơn,
không chảyqua các vùngđất có quặngsắt hay vôi. Thêmvào, rặngnúi
quá cổ về niênđại cách đây trên cả triệu năm, nên các khoángchất
trên lớp đất bềmặt khôngcòn nhiều sau hàng mấy trăm ngàn năm
bị mưagió bàomòn và cuốntrôi phầnlớn các khoángchất màumỡ
theo rabiển.
Đó cũng chínhlà lýdo giảithích tạisao các dântộc miềnnúi trên
caonguyên thường kém trínhớ hơn các dântộc sống ở vùng đồngbằng.
Dovì trên caonguyên chỉ cóthể dùng nguồnnước mưa nên cơthể
thiếu quánhiều khoángchất, khác với nước sông, suốI, hay aohồ
ở đồngbằng mang nhiều phùsa nhờ đã chảy qua hàng trămngàn câysố
đấtđai mầumỡ.
Cũng do bởi thiếu quá nhiều khoángchất sắt trong máu, nên nãobộ
của phần đông trẻem thuộc các vùng miền caonguyên TrungNambộ nóitrên
bị chậm pháttriển, và dĩ nhiên là khôngthích học nhiều hay dễ
bị chánhọc, vì khôngcó đủ trínhớ tốt cho chuyện họchành. Chưa
nóiđến ngaycả nếu ngườilớn thiếu khoángchất sắt lâudài, cũng
dễ đưa đến tìnhtrạng mấttrínhớ hay bệnhlẫntrí. Nhẹnhất là
lười tưduy và thiếu khảnăng sángtạo.
Cụthể minhchứng như đasố các cưdân miềnBắc, thiếu ít hay không
bị thiếu các khoángchất sắt, nhờ phùsa của con sôngHồng thườngxuyên
chảy qua vùng chứa mỏ quặngsắt, nên dòngsông thường có mầu
hồng đỏ. Nóivậy khôngphải là dân sống ở các vùng đó không
bị thiếu các khoángchất cầnthiết khác. Tuỳtheo kếtcấu điạhình
và vănhoá ẩmthực mà mứcđộ thừa thiếu của các loại khoángchất
tại mỗi điạphương cóthể được ápdụng nhiều hay ít.
Tómlại, ngaytừ thời lịchsử xaxưa, chấtxám hay tếbào bộnhớ
của conngười đã pháttriển tuỳthuộc rấtnhiều vào vấnđề ăn
và uống. Ăn để hấpthụ nhiệtlượng và chất sinhtố (vitamin),
còn uống là để hấpthu các khoángchất thiênnhiên, như cát với
ximăng, phải cóđủ cảhai mới xâydựng nên cănnhà của trithức.
Tinhthần (Software)
Saucùng, dù vấnnạn về phần “vậtchất” (hardware) vẫnlà
trởngại lớnnhất dobởi đasố xemthường, khôngchịu tìmhiểu
hoặc khôngcóđủ kiếnthức và trìnhđộ để khaithác. Tuynhiên,
mộtkhi đã hiểurõ hay nhậnthức được vấnđề rồi thì lại
rất dễdàng khắcphục, do kếtquả hiểnnhiên dựatrên thựctế
kiểmchứng được bởi các phươngpháp khoahọc thựcnghiệm. Ngượ
lại, về phần “tinh thần” (software) dùcó mangđến sựtốtđẹp
hay không, cũnglà do phầnlớn những thayđổi tưduy về giáodục,
rất khó thấyđược kếtquả liền mà phảicần một thờigian ítnhất
là 1 hay 2 thếhệ. Chính vìvậy nên khó thựchiện và luôn gặp
phải sựchốngđối quyếtliệt của các nhóm bảothủ về giáodục,
khôngmuốn thayđổi thóiquen của tưduy hay nhữnggì đang thụhưởng.
Mộtlầnnữa, cần phảicó sựquyếttâm thayđổi của những nhàlãnhđạo
về giáodục!
Muốn nóiđến phần trítuệ thì phải nghĩđến hai kếtquả
mongmuốn là kiếnthức hiểubiết và tưduy sángtạo. Cóthể ví
kiếnthức hiểubiết giốngnhư hạt ngọctrai được tíchluỹ và
kếttinh sau quátrình làmviệc miệtài với thời gian, nhấtlà khôngphải
consò nào trong thiênnhiên cũng sẳnsàng chora ngọc. Tuyvậy, tíchluỹ
kiếnthức dù có khó nhưng cũng còn dễ hơn gấpngànlần sovới tưduy
sángtạo và cóthể vínhư đem hạt ngọctrai sovới viên đákimcương
quýhiếm.
Consố thốngkê trungbình chothấy, phải có hàngngàn khoahọcgia thì
mới mong cóđược một nhàkhoahọc xuấtsắc ngoạihạng có côngtrình
phátminh ra điềugì mớilạ hay sởhữu mộtvài bằngsángchế. Nhưng
đólà thốngkê dànhcho các cườngquốc và khôngthểnào ápdụng
được cho Việtnam. Lýdo là vì consố thốngkê của Việtnam, nếucó,
cũng phải đitheo sau mộtvài consố không ở phíatrước! Dođó, để
tìmkiếm giảipháp tốiưu thì khôngcó cáchnào hayhơn là trởvề
với lýthuyết cănbản của sựsángtạo.
Làmsao để có nhiều những bộóc sángtạo? Cụthể cho dễhiểu hãy
lấy thídụ máyvitính. Để cóđược giảipháp tốiưu nhiềukhi máytính
phải chạyqua cả hàng trămngàn hay cả triệu phéptính, theo các
kếthợp khácnhau. Tươngtự nhưvậy, nãobộ của một người thườngxuyên
tưduy bằng một chuỗiliêntục những câuhỏi và trảlời. Mỗi câuhỏi
cần một câutrảlời dướidạng chung là những tínhiệu, tiêucực
(Âm) hay tíchcực (Dương). Những câutrảlời có tíchcực haykhông
là dựatrên những dữkiện đãđược lưugiữ trong tếbàonhớ
của nãobộ, kếtquả của những nămtháng dài họchỏi và rútkinhnghiệm.
Tíchluỹ hết tấtcả những tínhiệu trảlời chora càng nhiều
“Dương” hay tíchcực thì giảipháp càng gần với tốiưu, hay ngượclại
là bếtắc không tìmra giảipháp nào tốthơn và đành chìutheo cáigọilà
“sốphận” hay “địnhmệnh”.
Saucùng, nếu tiếptục tưduy để tìmkiếm thêm những giảipháp kháclạ
hay tốtđẹp hơnnữa, thì đó chínhlà bướckhởiđầu cho sựsángtạo.
Cụthể như một kỹsư cơkhí về xe luôn tưduy và tìmcách để làm
tăng khoảngcách dichuyển hay năngxuất của xe cho mỗi lít nhiênliệu
tiêuthụ, hay một côngnhân trong xínghiệp tìmra cách để giảm
chiphí cho nguồnvốn nguyênliệu. Nhưvậy không nhấtthiết cần
phảicó một trìnhđộ họcvấn thật cao để cóđược những tưduy
sángtạo.
Sángtạo là một kếtquả của quátrình tưduy thườngxuyên và
hộitụ vào một chủđề nàođó, do thóiquen hay bảnnăng đã được
huấnluyện. Một thànhquả nhântạo nhiều hơnlà thiênphú hay
ditruyền, dù ditruyền cóthể đã giúp khánhiều trong giaiđoạn đầu,
qua cấutrúc của bộnhớ tốt. Một cánhân hay tậpthể bìnhthường
cóthể được giáodục và huấnluyện để có nhiều khảnăng tưduy
sángtạo, rồi từđó cóthể giúp thayđổi vậnmạng của chính mình
hay cho cộngđồng xãhội chungquanh.
Đitìm một phươngpháp tốiưu cho GDĐT.
Gầnđây nhànước Việtnam đã bắtđầu thựchiện kếhoạch xâydựng
mộtsố trường đạihọc “đẩngcấp quốctế” với mụctiêu gópphần
đàotạo khoảng hai chục ngàn tiếnsĩ trongvòng 12 năm. Nếu nhànước
hỗtrợ và quyếttâm thựchiện với bấtcứ giánào, thì hyvọng
chắcchắn sẽ đạtđược mụctiêu dù có kéodài baolâu hay chậm
hơn thờihạn 2020 như đã lên kếhoạch. Thế nhưng hãy nhìn vào
thựctế một đấtnước với dânsố khoảngchừng 100 triệu (vào
năm 2020), dùcó vài chục ngàn TS và tronglúc đạiđasố nhândân và
độingũ côngnhân hay chuyênviên yếukém, thiếu khảnăng tưduy sángtạo,
thì kếtquả cũng sẽ là một consốkhông đángbuồn. Giốngnhư
một đạoquân chỉcó tướngtài mà thiếu quân tinhnhuệ,
chắcchắn sẽ bị thuatrận trong các cuộcchiến về kinhtế toàncầu
này!
Chưa nóiđến nạn chảymáuchấtxám nếu những nhàkhoahọc thựctài
với tưduy sángtạo đó lại khôngđược trọngdụng hay cóđược
những phươngtiện máymóc tốitân và các thànhphần cộngtácviên
giỏi để cùng làmviệc. Nếu khôngđược nhưvậy thì chắc sẽ là
“dọncỗ cho ngườita xơi” hết những nhântài và tinhhoa của đấtnước!
Nên nhớ về một quyluật lịchsử không thayđổi là những nềnvănminh
lớn thườnglà nơichốn tụhội lại của các nhântài trên
thếgiới.
Hiệnnay các nhàtưvấn nướcngoài hầunhư đều nhấttrí vớinhau
là Việtnam cầnphải có một lựclượng nồngcốt chuyênviên
trungcấp (2 năm caođẳng) và caocấp (4, 5 năm đại học) có khảnăng
và đủ tiêuchuẩn trên bốn ngành côngnghệ mũinhọn như : máy và
tựđộnghoá, điệntử, sinhhoá và tinhọc, để pháttriển
bềnvững theokịp với đà tiếnbộ khoahọckỹthuật của các lânbang
lánggiềng. Muốn được vậy, consố ướcchừng phảicó là từ 5
đến 10 % dânsố hay ítnhất là khoảng 5 triệu vào năm 2020 (Ở
Mỹ hiệnnay là khoảng chừng 24 % chung cho tất cả toàn dânố.)
Suyra từđó, khôngcòn có cáchnào kháchơn là phải khẩntrương
cảitổ lại hệthống giáodục và đàotạo trongnước để đápứng
với nhucầu. Một thốngkê sơkhởi chothấy dù có tấtcả gần 70
trường đạihọc và caođẳng ở Việtnam hiệnnay, giảsử nếu đàotạo
cho ratrường hàngnăm khoảng 100 ngàn chuyênviên đạt
chuẩnquốctế thì cũng mất ítnhất là 4, 5 chụcnăm nữa!
Trong vài năm qua, tấtcả các nhàgiáodục uytín trongnước đều có
đưara một đềnghị chung là Việtnam cần phảicó một sựcải cách
giáodục toàndiện. Nhưng chođếngiờ, sau một thờigian dài nghiêncứu
và saukhi bản dựthảo chiếnlược giáodục 2020 rađời, cũng còn
chưa thấy có một biếnchuyển tíchcực nào. Ngaycả khi bộ GDĐT
đưara khuyếncáo là các giáoviên nên bỏdần cáchdạy “Thầy đọc
– Trò chép”, thì cũng chưa thấy có ai đưara được một phươngpháp
mới nào hayhơn để thaythế.
Trởngại chính của dânViệt suốt trong thếkỷ 20 vừaqua là
phải chạytheo các môhình giáodục của nướcngoài mà quênmất,
hay bỏqua đi lời khuyên chítình của tiềnnhân về tinhhoa của giáodục.
Điều đáng ngạcnhiên là những bíquyết chântruyền về giáodục
của dânViệt suốt hơn hai ngàn năm và phải trảgiá bằng “máu
và nướcmắt” đó, thì chẳngcógì là caosiêu hay khóhiểu, mà
lại nằm ở trong câunói thườngngày của bấtcứ ngườI dânViệt
nào, ở bấtcứđâu trên thếgiới! Đó chínhlà câunói của các
bậc chamẹ lo nuôi con “ănhọc” nênngười; và lờikhuyênrăn các
thếhệ concháu là phải lo “họchỏi” cho đếnnơiđếnchốn!
Suyra thì bíquyết chântruyền của giáodục Việt chỉ vỏnvẹn
gồm có hai từkép là “ănhọc” và “họchỏi”, hay rútgọn
lại thành ba từ đơngiản chính theo thứtự sauđây là Ăn –
Học – Hỏi!
Ngạcnhiên? Nghingờ? Thắcmắc? Lịchsử conngười chẳngphải đã
làmđúng nhưvậy trong cả ngàn năm qua sao? Câutrảlời là: Đúngvậy!
Chẳngcógì mớilạ cả. Nhưng cái khácnhau chínhlà cáchlàm, như đem
sosánh cáiăn của ngườitiềnsử sống trong hangđộng cáchđây
cả ngàn năm với cáiăn của ngườikhách trong một nhàhàng
sangtrọng “5” sao tại một đôthị vănminh hiệnnay. Chính vì
nhờ cáchlàm khácnhau đó mà qua nhiều thếhệ, đã biến một trườnghọc
tầmthường thành ra trường có chấtlượng đẳngcấp quốctế.
Chuyện “ăn” thì đã trìnhbày rồi, chỉ xin nhấnmạnh thêm ở
đây để tránh sựhiểunhầm là cần phânbiệt giữa ba trườnghợp:
Ăn cho no đầybụng thì khác với ăn cho có đầyđủ các chất
dinhdưỡng để nuôi cơthể khoẻmạnh, có sứckhoẻ tốt để làmviệc.
Nhưng quantrọng hơnhết mà dânViệt đang khẩntrương cầnđến
ngay khôngphải chỉlà ăn cho no, mà chínhlà ăn thếnào để pháttriển
tốiưu nãobộ, nhấtlà cho côngviệc táitạo sinhra nhiềuthêm các
tếbàonhớ của bộnão. Liênhệ và sựkhácbiệt giữa hai trườnghợp
sau khá phứctạp và dễ bị hiểunhầm. Rấtít người hiểurằng
một trítuệ thôngminh thường dễ chora một sứckhỏe tốt, hơnlà
chuyện làm ngượclại.
Trởlại với chuyện “học” thì hầunhư ai cũng có kinhnghiệm
haybiết hếtrồi. Tuynhiên, nếu như ai cũng muốn bỏ cáchdạy
“thầy đọc, trò chép”, thì quảlà một sựhiểunhầm đángtrách.
Bởivì đó chỉlà một phươngtiện giáodục cơbản khôngthể không
xửdụng trong phươngpháp dạyhọc. “Ôngthầy” ởđây khôngthể
chỉ đượchiểu phảilà ôngthầy bằngxươngbằngthịt đang đứngtrước
lớphọc, mà còn cóthể ámchỉ là cuốnsách, bạnhọc cùnglớp, cái
máytruyềnhình hay ngaycả cái mátính xáchtay, v.v. Đólà cách để
truyềnđạt kiếnthức từ một nguồn trithức đếnvới họctrò
hay đếnvới một đốitượng khác đang tiếpthu. Tấtcả thuầntuý
chỉlà “mộtchiều”. Vấnđề chínhlà saukhi tiếpthu được
kiếnthức “mộtchiều” rồi, ngườinhận, hay “trò”, sẽ
xửlý nhưthếnào mớilà điều đángnói, và cũng chính vìvậy
mới đưađến thắcmắc để “hỏi”.
Saucùng, “Hỏi” mới chínhlà yếutố quantrọng nhất để chora
giảipháp tốiưu về GDDT. Có ba chủthể: Thầy, Trò và Xãhội (baogồm
luôncả chamẹ, bạnbè hay đồngnghiệp) nhưsau:
· Thầy hỏi là để ônlại khảnăng và kiểmsoát kếtquả
họctập của trò.
· Trò hỏi là để tìmkiếm và tựhọc để tíchluỹ kiếnthức
cho chínhmình.
· Xãhội hỏi là để đánhgiá thựctài hay để kiểmchứng lại
khảnăng của thầy và trò.
Tổnghợp cả hai cách “Thầy đọc, Trò chép” (TDTC) và “Tự
Học Hỏi” (THH) đó theođúng tỷlệ tốiưu sẽ chora một nềngiáodục
và đàotạo hoànhảo có chấtlượng như mongmuốn. Cụthể thídụ
như một đềnghị sauđây để xétnghiệm:
· Tiểuhọc: (TDTC) 100- 80% / (THH) 0 – 20%. Nghĩalà bắtđầu từ
mẩugiáo (TDTC) 100% / (THH) 0%, sẽ tăng / giảmdần đến lớp 5 là (TDTC)
80% / (THH) 20%. Tiếptục:
· Trunghọc cơsở (Cấp 2): (TDTC) 80 – 70% / (THH) 20 – 30%
· Trunghọc phổthông (Cấp 3): (TDTC) 70 – 60% / (THH) 30 – 40%
· Bậc Đạihọc: (TDTC) 60 – 40% / (THH) 40 – 60%
· Bậc Caohọc: (TDTC) 40 – 20% / (THH) 60 – 80%
· Bậc Tiếnsĩ: (TDTC) 20 – 0% / (THH) 80 – 100%
Nếu cóthể ápdụng đúng nhưtrên đến Bậc Caohọc Tiếnĩ thì
chắc sẽkhông cầnphải đi nhậpcảng một chươngtrình giáodục
đàotạo nào ở nướcngoài. Tuynhiên, nếu trong những bướcđầu
còn yếukém về những kiếnthức cơbản thì cũng cầnphải có
những ôngthầy đủ tiêuchuẩn về chuyênmôn để dìudắt và hướngdẫn.
Bímật của tưduy sángtạo
Cụthể thídụ: Hãy chọn một người có tríkhôn trungbình và yêucầu
người đó cốgắng đặtra 100 câuhỏi quyvề một chủđề chính
nàođó, như “Tráiđất” chẳnghạn. Thờigian để đặtra được
100 câuhỏi về chủđề tráiđất cóthể làmcho đốitượng phải
mất một thờigian khálâu, chừng vài ngày, vài tuầnlễ hay vài tháng,
khôngthể biếtchắcđược. Nhưng điều cóthể biếtchắcđược là
saukhi làmxong 100 câuhỏi, đốitượng cóthể cóđược một
kiếnthức chuyênsâu về tráiđất, và biếtđâu trongđó sẽ có
mộtvài ýtưởng rất mớilạ và khácthường, đượcgọi là ýtưởng
sángtạo! Nhưvậy, nếu muốn có nhiều côngdân giàu tưduy sángtạo,
thì khôngcógì kháclạ hơnlà huấnluyện những thếhệ trẻ có thóiquen
“Tự Học Hỏi” cùngvới bảntính “tòmò trithức” về
khoahọc.
Ngàynay khoahọc đã chứngminh “vậtchất” và “nănglượng”
chỉlà một sựthayđổi hay hoánchuyển hìnhtrạng của sựvật,
tuy hai nhưng vốnlà một. Chính nhờ vậy, cóthể hiểu một cách tươngtự
cho “chấtxám” và “trítuệ” của loàingười, hay nóicáchkhác,
chỉsố của sựthôngminh là một hàmsố tuỳthuộc vào mậtđộ và
sốlượng của các tếbàonhớ trong nãobộ. Đồngthời, mậtđộ
và sốlượng của các tếbàonhớ cũnglà một hàmsố thayđổi
theo tỷlệthuận với bathôngsố: “Ăn”, “Học” và “Hỏi”!
Saucùng và trênhết tấtcả vẫn là những chứngnghiệm của
lịchsử loàingười: sẽ khôngbaogiờ có một xãhội thậtsự dânchủ,
vănminh và giàumạnh, nếunhư có một sốnhiều (30-50%) côngdân
của xãhội đó vẫncòn bị đói, thiếuăn hay suydinhdưỡng
trầmtrọng.
Nguyễn Cường
Sacto 10/2009
|