dchph |
Ziendan.net
|
|
Hồsơ |
Gianhập:
| Nov.15.2002 |
Nơicưtrú:
| Global Village |
Trìnhtrạng:
|
[hiệntại không cómặt trên diễnđàn]
|
IP:
| IP ghinhập |
|
Hoài An : Thư gửi ông Lương Thư Trung (Tácgiả bài "Thầy Tôi và Việc Tuchỉnh Văntự")
FROM: Franktrinh2170@lzzzzzzzzzzz.com DATE: Tue, 18 May 2004 17:52:27 EDT TO: <editor@vny2k.com> SUBJECT: Viec tuchinh vantu, chinhta tiengViet Dear anh PCDong, Dadoc Phan3 baiviet cuatoi. Thanks. Toi thay trong Website nha cobai cua ong LuongThuTrung va tren talawas cung co bainay ve viec "tuchinh vantu". Moiday toi dachuyengui lathu cua HoaiAn (buthieu cua mot dongnghiep tai Uc [...........]) cho talawas va ho dadang tren lienmang ngay homnay (gio VN &Uc) 19-5-2004. Neu anh muondang thi ghilai la laytu talawas. Neu cacanh co nhung baiviet gi, cuaai, lienquan den vande nay, toi se xin sansang chuyen den talawas de cho ziendan them phan haohung. Anh cung cothe vao mang www.talawas.org de laybai. Than, tn Xuấtxứ : http://talawas.org/nn/n164.html Hoài An : Thư gửi ông Lương Thư Trung (Tácgiả bài "Thầy Tôi và Việc Tuchỉnh Văntự") Thân gửi ông Lương Thư Trung Thưa ông, Nhân may mắn được đọc bài viết của ông “Thầy tôi và việc tu chỉnh văn tự” chúng tôi cảm thấy vô cùng thích thú nên muốn cảm ơn ông và tỏ lòng ngưỡng mộ đối với cụ Hoài Nguyên nay đã 89 tuổi mà cụ vẫn còn quan tâm đề nghị “tu chỉnh lại văn tự chữ quốc ngữ”. Trong hăng say áp dụng thực hành đề nghị dùng các phụ âm thay thế “để loại những phức tạp gây khó khăn vô ích cho trí nhớ và khiến chính tả ngắn gọn hơn” chúng tôi đã có những hân hoan, những thắc mắc, cũng như những khó khăn mà chúng tôi nêu ra sau đây để được chỉ giáo thêm. Chúng tôi hân hoan thích thú thay đ bằng d ; thay gh bằng g ; và thay ngh bằng ng . Khi thay thế ph bằng f , chúng tôi thấy khoái lắm vì đã thực hiện được nguyên tắc tiết kiệm, tuy không quên rằng làm như thế là chấp nhận thêm một chữ mới f , trong bảng các chữ cái của tiếng Việt. Việc thay thế chữ d lẫn gi bằng z không gây thắc mắc gì cho chúng tôi vì trong phương ngữ chúng tôi dùng cách đọc d không có gì khác biệt với cách đọc gi . Ðiều chúng tôi tự hỏi là liệu những người có cách đọc d khác với gi thì quí vị có thấy trở ngại nào không. Chúng tôi lại còn biết rằng chấp nhận thay thế d và gi bằng z là chấp nhận để cho tiếng Việt tạo thêm nhiều đồng âm hơn trước nữa. Thí dụ các đồng âm mới là: zì vừa có nghĩa là dì , [font color="#0000ff"]vừa có nghĩa là gì ; [/font] zây vừa là dây và cũng là giây ; zỗ vừa là dỗ và cũng là giỗ ; zấu vừa là dấu và cũng là giấu ; v.v… Chúng tôi chỉ hy vọng con số các đồng âm mới này không quá nhiều đến độ làm mất sự trong sáng của tiếng Việt chúng ta. Ðề nghị dùng k thay cho cả c và q làm cho chúng tôi có nhiều suy tư và gặp một số khó khăn cần đến sự chỉ giáo thêm của quí vị. Trước hết là khó khăn: khi chúng tôi thay thế q bằng k trong chữ quí thì chúng tôi có kúi ; thay thế c bằng k trong chữ cúi chúng tôi có kúi , xem như giống nhau, nhất là khi viết tay, không biết đánh dấu sắc (‘) cho chính xác vào u hay vào i . Ðến khi áp dụng cho hai chữ cúôc mà thường viết là cuốc và quốc thì cả hai chữ đều cho ra kuốc , thật tai hại vì phải chờ đặt lại chữ kuốc vào trong câu thì mới rõ nghĩa để có thể đọc đúng được là cuốc hay là quốc . Ðến đây, chúng tôi tình cờ nhận thấy chính tả đã lan rộng ra cả cách đánh dấu. Thật vậy, nếu có qui ước rõ ràng thì kúôc là chánh tả của cuốc và kuốc là chính tả của quốc . Tiếp tục nêu những khó khăn thắc mắc của chúng tôi: áp dụng thay thế q bằng k vào chữ quít chúng tôi có kuít , nhưng đồng thời chúng tôi cũng biết rằng chữ huýt có chứa một nhị trùng âm giống như chữ quít , do đó chúng tôi thắc mắc không biết viết chính tả kuýt cho quít thì có được hay không. Sau đây là một vài suy nghĩ của chúng tôi liên quan đến đề nghị dùng k thay thế cho c và q : đành rằng trong phiên âm quốc tế chữ cái k được dùng để biểu hiện cho âm “cờ” , nhưng chữ quốc ngữ đã lỡ dùng chữ cái c rồi, đó là điều không may, tuy nhiên vấn đề của chúng ta ở đây là sự lựa chọn giữa k và c . Theo thiển ý của chúng tôi thì nên lựa chọn c hơn k để thay thế cho âm “cờ” trong tiếng Việt vì lý do c đã được dùng rất nhiều rồi, cho nên nếu đồng ý có sự thay thế thì dùng c sẽ gây ít xáo trộn hơn dùng k . Trong tiếng Việt hiện nay, k chỉ được dùng trước 3 nguyên âm i/y , ê và e (thí dụ: kín/kỳ , kềm , kẹp ) mà c cũng đã được dùng trước ư, ơ, a, u, ô, o, ă, â (thí dụ: cứ , cơm , càng , cúc , cộng , con , cắn , câu ) và c cũng đã được dùng làm phụ âm cuối trong rất nhiều chữ rồi (thí dụ như trong hực , nhạc , măc , bâc , luc , nôc , khoc , chiêc , cươc , luộc , quôc , v.v…) Liên quan đến đề nghị viết ik thay cho ich , chúng tôi có suy nghĩ sau đây: nếu chấp nhận thì vô hình chung chúng ta đã phá vỡ cả một hệ thống; thật vậy phụ âm cuối biểu hiện bằng ch được dùng sau các nguyên âm i , ê , e ( tich , chêch , trach ; xin chú ý chữ a trong trach chỉ là lối viết của âm “ e” mà thôi) còn phụ âm cuối biểu hiện bằng c được dùng sau nguyên âm ư , a , ă , â , u , ô , o ( thưc , nhạc , hăc , bậc , cuc , lộc , toc ). Cũng về mặt hệ thống, ich , êch , ach làm thành một hệ song song với hệ tạo ra bởi phụ âm cuối nh trước i , ê , e (nghĩa là inh , ênh , anh , thí dụ tính , lệnh , cành ). Tóm lại viết ik hay ic thay cho ich không có lợi ích thiết thực, trái lại còn phá vỡ một hệ thống hoàn chỉnh khả dĩ giúp chúng ta dạy các em viết chính tả hợp lý hơn. Kính thưa ông Trung, Bài viết của ông còn đề cập đến nhiều điều hấp dẫn khác nữa mà chúng tôi nâng niu thu nhận. Có ba điều mà chúng tôi nóng lòng được biết thêm: định nghĩa của tự và từ; qui luật viết liền các chữ vào nhau (thí dụ fanhfui ); và qui luật dùng gạch nối các chữ (thí dụ khach-khứa ). Cũng để chứng tó chúng tôi đã cẩn trọng đọc bài viết của ông đến mức độ nào chúng tộ dám mạo muội chỉ ra một lỗi chính tả mà cụ Hoài Nguyên khả kính đã mắc phải khi viết bài thơ “Gom sưk lớn” của cụ. Ðó là chữ gì trong câu “chính trị kậy gì trong miệng chén?” Âu cũng là một biểu hiện cho sức ép nặng nề của thói quen. Xin đa tạ ông và mong chờ ngày xuất bản quyển sách của cụ Hoài Nguyên. Hoài An Perth, Australia Tháng 5, 2004 © 2004 talawas
"Thầy Tôi và Việc Tuchỉnh Văntự" đãđược đăngtải trên nhiều trangnhà, trongđó gồm có Vănhọc Nghệthuật, vny2k, và Talawas. Mời đây Hoài An có bài "Thư gửi ông Lương Thư Trung" đăng trên Talawas và tôi được giáosư Trịnh Nhật chuyểnlại. Tôi xin đănglại láthư này của Hoài An hầumong nghengóng thêm ýkiến mới về việccảicách tiếngViệt hiệnđại. Xin cảmơn gs Trịnh Nhật đã có nhãý gởivề ziendan.com chophép đăngtải để điễđàn nầy thêmphần khởisắc. Thầy Tôi và Việc Tuchỉnh Văntự Lương Thư Trung Boston ngày... tháng 12 năm 2001. Thưa chị Hiền, Đã khá lâu, có gần mười năm trời, tôi mới lại nhận được lá thư của chị gởi kể từ khi tôi xa làng quê và trường cũ. Trong thư chị có đặt ra cho tôi câu hỏi là "Anh có gặp lại vị thầy cũ nào của anh ở bên ấy không? Ở đây tôi lâu lắm rồi, không gặp lại em học trò cũ nào từ khi về Sài Gòn. Nghề "đưa đò" nhiều lúc cũng buồn anh nhỉ !" Đọc thư chị, tôi rất cảm thông với cái nghề dạy học hơn hai mươi bảy năm của chị và tôi xin được chia sẻ cùng chị về những tâm tình của vị giáo sư Việt văn của tôi hơn bốn mươi năm về trước, mà thật may mắn tôi được quen biết với con của Thầy và có thư thăm cùng trao đổi với Thầy hồi năm ngoái. Thầy tôi, cụ Hoài Nguyên, năm nay đã 86 tuổi rồi và còn non tháng nữa Thầy bước vào tuổi 87. Đôi bàn tay Thầy lúc nào cũng run run, yếu ớt, thế mà Thầy vẫn lần từ nút chữ trên bàn đánh chữ của máy điện toán với những suy nghĩ làm cách nào tu chỉnh lại văn tự chữ quốc ngữ. Những suy nghĩ này được Thầy viết ra thành nhiều chương và dự định in thành sách nhằm giới thiệu với các bậc thức giả cùng các thế hệ trẻ Việt Nam. Trước khi giới thiệu về đề nghị của Thầy, tôi xin được nhắc qua một chút về thân thế của Thầy. Là một giáo sư Việt văn trường trung học Thoại Ngọc Hầu và các trường tư thục ở Long Xuyên vào thập niên 50-60, rồi sau đó Thầy về dạy tại các trường trung học ở Sài Gòn cho tới tháng Tư năm 1975, nay Thầy định cư tại Canada. Ngoài công việc dạy học, Thầy luôn luôn suy nghĩ về tương lai tuổi trẻ Việt Nam. Trong một lá thư gửi cho tôi vào tháng 7, năm 2000, Thầy viết : " Tám mươi lăm tuổi đời, bề ngoài tuy còn tàm tạm, nhưng bên trong thật đã nát bấy, nát vì nhiều duyên căn khác hơn là những hao mòn của cơ thể. Bốn mươi ba, bốn mươi tư năm trước ông già cũng chẳng còn trẻ trung gì mà hành nghề vẫn cứ bên lề nghi thức; quần áo chỉ vừa đủ, không xú xứa; cái caravate vì hiệu trưởng nhăn nhó quá phải đeo cho qua mắt, đến cổng trường mới quàng vào, vào qua cửa lớp lại tháo ra đút túi quần. Dạy Việt văn, hiếm thầy dùng đến phấn, nhưng riêng ông thì sau giờ dạy, đầu tóc, quần áo cứ như người khuân vác ở nhà máy xay bột vì ông dạy là ông vẽ, bôi bôi, xóa xóa; hình dung cả những ý trừu tượng bằng một biểu đồ. Ông già nhớ lại : thời ấy, những chiều không dạy, đi xuống phố về, qua cầu Hoàng Diệu ngược chiều với dẫy dài học sinh trai gái lớn có, nhỏ có, từ trường Thoại Ngọc Hầu và các trường tiểu học đang líu ríu nườm nượp ra về, ông dừng bước đứng nhìn, bần thần, lòng vui lo lẫn lộn:"Ta làm gì cho những công dân nụ hoa này trước một thời cuộc đang cuồn cuộn sóng ngầm." Trong một lá thư khác, viết vào tháng 8 năm 2000, Thầy tôi viết về những ngày dạy học:"Tôi thiệt thòi hơn anh nhiều. Trong căn nhà văn hóa "làng ta" ấy, tôi chỉ là khán giả, bàng quan nhiều hơn là thành viên, dầu cho là thứ khán giả say chìm trong cảnh, nhiều khi nước mắt chan hòa hơn cả người trong cảnh. Tôi đã sống bằng nông tang, nhưng không nếm cảnh nông dân vợ con nheo nhóc, được bữa sáng lo bữa tối. Tôi cũng đã lao đầu vào cuộc chiến và rồi cũng bỏ cơ nghiệp, tài sản, di cư, di trú, nhưng thực sự chiến tranh chưa tàn phá đời tôi. Mà cả ngay khi sống "tử tế", tìm trung dung trong nghề dạy học, tôi cũng chẳng yên bề hành nghề... Như anh biết, tôi vô duyên với học sinh Sài Gòn mà cả giáo chức ở đây mà tôi tự biết không có hân hạnh là đồng nghiệp... Tôi rất lận đận trong chức năng dạy học; vào nghề mà tôi không bám lấy đó làm sinh kế. Tới mấy năm đầu thập niên 70, chán nghề tôi lên rừng khẩn hoang và đi cày thuê ở đồng bằng Sa Đéc - Vĩnh Long, vào sâu cả những nơi hoang vắng như Tân Phú Trung, Tân Lượt sát Tiền Giang, nhiều nơi chỉ tới được bằng xuồng, vì đường bộ bị nước xoáy đã lở hết, cây cối um tùm, đổ nghiêng rạp xuống sông. Vào rừng rẫy như vậy, tôi chia sẻ thoải mái những gian truân, không những với nông dân khách hàng mà còn với nhiều giới khác ở làng mạc..." Trên đây, tôi lược ghi lại vài hàng về những chia sẻ của Thầy về những gian truân của một vị giáo sư luôn dành lòng mình cho các "công dân nụ hoa" giữa những ngọn sóng ngầm. Một trong những ý nguyện ấy cứ ấp ủ mãi trong lòng Thầy và rồi khi tuổi đời ở bậc thượng thọ rồi mà Thầy vẫn không nản chí bỏ dở những tâm tư Thầy đã đeo đuổi. Thầy đã nghiên cứu nhiều tư tưởng trong dòng sống thuần Việt, rồi biên soạn nhiều tài liệu, sách vở nói về văn hóa để lại cho mai hậu. Ở đây trong phạm vi lá thư ngắn gởi về chị, tôi xin nêu lên một trong những điều Thầy mơ ước là việc "tu chỉnh văn tự", một vấn đề khá mới giữa nền văn học chữ viết hải ngoại này. Theo lời mở, Thầy đặt ra câu hỏi là "Tại sao đăït lên việc sửa đổi ? " Và Thầy đã giải đáp:"Sửa đổi là nhu cầu đương nhiên của thế tiến hóa, nhất là ở hiện đại. Chữ Việt không sửa đổi không đáp ứng đà tiến hóa đang diễn ra và không gánh được vai văn tự dân tộc thống nhất các quần sinh lớn nhỏ người Việt sinh hoạt tản mản trên khắp thế giới mà chủ yếu là những thế hệ trẻ kế tiếp nhau, đang cần nó để bảo toàn căn cước và phát huy nếp sống Việt."(*) Sau những dẫn giải các lần sửa đổi cách viết chữ quốc ngữ hồi mới ra đời do Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của nhằm chỉnh lại những mẫu tự ghép không đúng với phát âm Việt, như sửa mẫu tự "bl" thành "tr" (Ví dụ: Chúa Blời thành Chúa Trời). Rồi tiếp theo thời kỳ chữ quốc ngữ phát triển thành văn tự chính, những học giả lòng còn nặng với chữ viết đã nhắm vào tu chỉnh "chính tả từ ngữ" sao cho chính xác hơn. Về điểm này các vị dùng "gạch nối" để nối liền các từ đa âm.( Ví dụ như gập– ghềnh, đoạn – trường...); nhưng những khiếm khuyết trong chữ viết ngày nay vẫn còn nhiều và Thầy đã nêu ra bảng tóm tắt đề nghị những tu chỉnh chính tả cần thiết như sau: "1- Việt ngữ không phải là đơn âm; những từ đơn đa-âm và những từ kép đều được viết các âm ngữ hoặc liền đi hoặc có gạch nối ở giữa, ví dụ: "quạnhquẽ, rãrời"... 2- Tám phụ âm được thay thế để loại những phức tạp gây khó vô ích cho trí nhớ và khiến chính tả ngắn gọn hơn: * Z thay cả cho D (zê) và Gi. Ví dụ : "za-záo, záo-zục" (gia-giáo, giáo-dục) * D thay Đ Ví dụ : dường dến dây khó-khăn, khuất-khúc lắm (đường đến đây khó khăn, khuất khúc lắm). * K thay cả C và Q Ví dụ : kon-kông dậu trên cây gạo, kó kẻ định bắn (con công đậu trên cây gạo, có kẻ định bắn). * G thay cho Gh (hoàn toàn đọc cứng "gờ") Ví dụ : thằng bé gầy-gò, gẻ-lở, thấy mà gê (thằng bé gầy-gò, ghẻ-lở, thấy mà ghê) * Ng thay cho Ngh. Ví dụ : ngề- ngiệp, ngiện-ngập...(nghề-nghiệp, nghiện-ngập) * F thay cho Ph. Ví dụ : fiềnfức, fanhfui, fè-fỡn (phiền phức, phanh phui, phè-phỡn) 3- Viết "ik" thay cho "ich". Ví dụ : vô ik, lợi ik (vô ích, lợi ích) để giữ nguyên một dạng với "ak, ok, uk, ưk" (hiện nay viết ac, ốc, uc, ức) 4- Không đánh dấu sắc ( ' ) thừa trên những âm ngữ tận cùng bằng một trong bốn phụ âm : "k"(c), "ch", "p" và "t". Ví dụ : hâp-tâp , khach-khứa, thưk-ăn hêt sạch....( hấp-tấp, khách-khứa, thức ăn hết sạch).(*) Ngoài ra, trong bản thảo quyển "Ba vấn đề khởi đầu văn hóa Việt trên thế giới" mà Thầy gởi cho tôi, Thầy còn đề cập nhiều vấn đề quan trọng khác như nên gọi "tông giáo" thay vì gọi "tôn giáo"như từ xưa đến nay, vấn đề "Tông giáo và tư tưởng gốc của người Việt"; "Tông giáo Việt trong việc tiếp thâu những tông giáo khác"; "Vị thế Việt trong văn hóa Trung nguyên"; "Việt Bách, Việt Hán và Việt Âu Lạc". Với 384 trang sách, mà Thầy đã mở ra cho đứa học trò cũ của Thầy hơn bốn mươi năm về trước nhiều vấn đề cần kíp mà tôi phải học hỏi thêm nhiều dù nay tuổi đời của mình không còn trẻ trung gì . Nhớ ngày xưa Thầy dạy mình học chữ và ngày nay khi Thầy ở vào bậc thượng thọ rồi, Thầy lại còn nhắn nhủ học trò xưa những điều Thầy chưa dạy hết lúc ở trường. Nhớ mà thương và biết ơn Thầy biết chừng nào. Trong lời kết lá thư, Thầy đã viết thật cảm động: "Nói chuyện thì phải ra câu, đầu cuối mạch lạc, nên bắt buộc phải có những chủ từ miễn cưỡng xưng "tôi", miễn cưỡng xưng "bút hiệu", chứ thật sự có u mê chăng nữa thì với một kẻ già nua, cơ thể mỗi ngày một tàn héo trông thấy, thời gian đâu còn để cho hình nét và màu sắc mà đòi tô vẽ một cái tôi đã mãn cuộc. Còn chăng là cái "chúng ta". Chính vì tương lai mà tôi đãi lọc hiện tại và khai triển quá khứ , muốn Dòng Sống phục sinh tươi tốt, cùng với nhiều dòng khác mà tươi tốt muôn màu, chứ khờ dại gì mà mất công trang trí căn nhà đã mục. Như tôi nói trong bài tựa tập một, đây chẳng phải việc một người làm, cho nên mong ai đừng chú ý quá đến từ ngữ "Tôi"; nó nói sai lạc nhu cầu của việc làm... Bây giờ chắc anh rõ, sức tàn, lực kiệt mà sao tôi không bỏ cuộc ..." Thưa chị Hiền, Tình thầy trò bây giờ, chị cho biết không bằng thế hệ mình, học trò Sài Gòn không ngoan bằng học trò miền quê hay dưới tỉnh. Điều này cũng dễ nhận chị Hiền à. Cái nếp nhà quê, sống ở làng là cái nôi văn hóa Việt mà! Xa cái nôi ấy là xa cái cội nguồn rồi. Nói gì bây giờ, mà ngày xưa Phan Khôi, tác giả bài thơ Tình Già và cùng nhiều tiểu luận khác thời ấy cũng có nói đến cái tình thầy trò ngày xưa cũng bị văn minh làm mai một đi nhiều qua bài "Thầy trò đời nay với thầy trò đời xưa" trên tuần báo Phụ Nữ Tân Văn số 98 ngày 3 tháng 9 năm 1931.(**) Trong báo Văn số 59, tháng 11 năm 2001, mục "Sổ tay", nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng có viết kể lại lần về thăm thầy củ, nhà văn Cung Giũ Nguyên, tác giả quyển "Kẻ Thừa Tự", qua một đoạn ghi thật vô cùng cảm động :"Thầy đã già. Nhưng người học trò năm xưa giờ cũng đâu còn trẻ. Thầy hỏi : Anh về bao giờ? Tôi nắm tay Thầy. Ánh sáng của ngọn điện yếu không soi rõ khuôn mặt Thầy. Thầy bảo : Anh vào đây ! Tôi bước theo Thầy.... Thầy hỏi : Anh đã có cuốn này chưa ? ... Thầy mở trang đầu cuốn sách, cúi xuống viết : "Mến gửi Nguyễn Xuân Hoàng Nha Trang 10-8-2001 Cung Giũ Nguyên" Cuối chữ ký bị nhòe một giọt nước. Dưới chữ ký là một đường vạch cong và mạnh."(***) Danh từ "Thầy" luôn được viết hoa chị Hiền à, không thể viết khác được. Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã viết vậy.. Và tôi từ hồi nào đến giờ cũng muốn bắt chước viết vậy. Trong thư chị viết, chị còn hỏi tôi về văn học hải ngoại, về những tác phẩm văn học nào tôi đã đọc trong năm vừa rồi ? Câu hỏi thật thú vị vì tôi vốn thích đọc sách từ hồi còn đi học chị Hiền à . Như chị biết hồi còn ở nhà, lúc chị vào nhà tôi thăm chơi hay những lần gặp chị ở trường, tôi thường hay khoe với chị về những cuốn sách quí dù có hơi xưa. Riêng bên này, dù nơi tôi đang ở quá xa xôi các trung tâm văn hóa Việt như dưới California hay vùng Hoa Thịnh Đốn, nhưng tôi cũng cố gắng nhờ mua các quyển sách mình thích. Đặc biệt, tôi may mắn được đọc quyển biên khảo về Phật giáo của giáo sư Nguyễn Văn Phú, sách dày 45 trang mà hết sức súc tích, rạch ròi về tư tưởng một tôn giáo lớn, gần gũi với người Việt mình, đó là Phật Giáo. Vì lá thư đã dài, nên không tiện ghi lại đây những cảm nhận chi tiết để chia sẻ cùng chị , đành hẹn chị dịp khác. Ở Sài Gòn, chị có đọc những sách gì mới, chị có thể cho tôi vài tin tức với nhé. Tôi cũng có mua được cuốn Tự Điển Hán Việt Từ Nguyên của Bửu Kế do nhà xuất bản Thuận Hóa phát hành năm 1999, để biết rõ căn nguyên của các chữ Việt Hán mà mình hay nói, hay dùng thường ngày nhưng nhiều lúc không biết đường đâu mà mò ra cái gốc. Nhưng có điều này cũng muốn thưa với chị là qua bộ Tự Điển Hán Việt Từ Nguyên dày tới 2812 trang, dù tác giả và gia đình hết sức công phu trong việc biên soạn, in ấn , nhưng tôi thấy có vài thiếu sót nhỏ, xin ghi ra đây, nếu tiện xin chị viết vài dòng cho nhà xuất bản Thuận Hóa, hy vọng như một chút ý kiến nhỏ nhoi của một bạn đọc xa từ bên này. Số là tôi tìm chữ "ngã" nghĩa là "ta" ở trang 1206 hoài không có chị à! Như vậy cho nên trong tự điển này mất luôn một loạt từ ngữ như "ngã bối", "ngã kiến", "ngã sinh", vân... vân... Thêm nữa, khi giải thích các bộ đi kèm chữ gốc, soạn giả chỉ giải nghĩa một bộ mà thôi; phần còn lại mình phải tự tìm thêm trong một bộ tự điển Hán Việt khác; đây cũng là một trở ngại cho người tra cứu vì mình đâu có rành hết các bộ chữ Hán. Thiếu sót khác là khi giải thích chữ "tứ" với bộ "tâm" có nghĩa là "phóng túng" (trang 1902), đến các chữ "Tứ Tình" nghĩa thả lỏng tình dục, "Tứ Túng" nghĩa buông lung không kềm chế, "Tứ Ý" nghĩa tự ý muốn làm gì thì làm (trang 1902), phần chữ Hán, bản in lại in chữ "tứ" với bộ "vi", 5 nét, có nghĩa là bốn, thay vì phải viết chữ "tứ" với bộ "tâm", 10 nét. Đó là một vài lổi nhỏ mình tình cờ gặp, nhưng cũng làm mình hơi nghi nghi các chữ khác. Do đó mà việc tra cứu các từ ngữ trong Tự Điển Hán Việt Từ Nguyên phải hết sức cẩn trọng và kỹ càng. Nếu được nhà xuất bản xem xét lại những lỗi nhỏ này thì quí lắm và có ích cho bạn đọc lắm. Tôi bây giờ cũng như ngày còn nhỏ, hai quyển sách giúp tôi nhiều nhất, đó là cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư và Minh Tâm Bửu Giám mà đi đâu tôi cũng cố gắng mang theo không rời. Ở đó mình học cả đời vẫn chưa hết những điều hay, nói gì những triết lý cao xa. Và để kết thúc lá thư này, tôi xin ghi lại bài thơ "Gom Sức Lớn" của Thầy tôi, được viết theo cách "tu chỉnh văn tự" mà Thầy đã đề xướng: "Gom sưk lớn" "Tuổi zà, việk lớn, ngĩ về xa Tiếp sưk, chung lưng kó mọi nhà. Duôk-sáng tổ-tông không dể tăt. Tươnglai sinh-loại tính dường ra. Chínhtrị kậy gì koanh miệng chén? Môisinh nào phải chuyện ngoài za? Dỗi Sống kêt- doàn gom sưk lớn; Thái-hòa , ta zựng Hội Hoàng-hoa." (Hoài Nguyên) Tôi xin ghi lại bài thơ theo cách viết quen thuộc: Gom sức lớn Tuổi già, việc lớn, nghĩ về xa Tiếp sức, chung lưng có mọi nhà. Đuốc-sáng tổ-tông không để tắt. Tương lai sinh-loại tính đường ra. Chính- trị cậy gì quanh miệng chén? Môi sinh nào phải chuyện ngoài da? Đổi Sống kết đoàn gom sức lớn; Thái- hòa, ta dựng Hội Hoàng- hoa. Hoài Nguyên Như trung thành với đề nghị "tu chỉnh văn tự" của mình, Thầy tôi trong mọi viết lách, thư từ, kể cả bản thảo cuốn Ba Vấn Đề Khởi Đầu Văn Hóa Việt Trên Thế Giới, cụ đều viết theo lối tu chỉnh mới như bài thơ vừa rồi. Việc "tu chỉnh văn tự" không phải là việc dễ dàng được chấp nhận, nhưng đưa ra được cách tu chỉnh như thế nào, tại sao phải tu chỉnh với một người suốt đời suy tư về ngọn nguồn chữ quốc ngữ mình như Thầy, đến lúc tuổi trời gần 90 rồi mà vẫn còn canh cánh bên lòng, quả là một điều không phải ai cùng nghĩ và cưu mang như Thầy được! Thăm chị mạnh và chúc chị năm mới luôn an vui. Hẹn lá thư sau sẽ viết nhiều hơn... Kính thư, Lương Thư Trung haitrau7@yahoo.com --------------------------------------------------- Chú thích: (*) Bản thảo "Ba Vấn Đề Khởi Đầu Văn Hóa Việt Trên Thế Giới" của Hoài Nguyên, trang 77. (**) "Mười Ba Năm Tranh Luận Văn Học" của Thanh Lãng, trang 89, quyển 2, nhà xuất bản Văn Học, 1995. (***) Tạp chí VĂN số 59, tháng 11 năm 2001, California (Hoa Kỳ), trang4 mục "Sổ Tay".
-----------------------------
|