Printable Version |
+-+ Nguồngốc dânViệt |
Author: dchph posted on 12/7/2012 8:17:24 AM Nguyễn Lộc Yên (Lời tâm tình: “Trang Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. Xin độc giả đừng xem đấy là chính sử, vì “Thiết nghĩ” chỉ là ý kiến riêng rẽ của tác giả mà thôi. “Trang Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba (Tuesday) mỗi tuần - NLY). TRIỆU ĐÀ (257-137) Cổ sử chép: Sau khi Tần thuỷ Hoàng gồm thâu lục (6) quốc: Tề, Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ, Sở, ở Trung Nguyên. Năm 218 (TCN). Vua Tần sai tướng Đồ Thư chỉ huy 50 vạn quân, đánh chiếm vùng đất của Bách Việt ở Lĩnh Nam. Đồ Thư chiếm được đất, nhưng bị tử trận. Vua Tần chia vùng đất Lĩnh Nam làm 3 quận: Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (đông bắc Quảng Tây) và Tượng Quận (nam Quảng Tây), sai Nhâm Ngao cùng Triệu Đà đến cai trị. Nhâm Ngao làm Quận úy Nam Hải. Nam Hải gồm 4 huyện: Bác La, Long Xuyên, Phiên Ngung và Yết Dương. Triệu Đà làm Huyện lệnh Long Xuyên xin Tần Thuỷ Hoàng di 50 vạn dân, từ Trung Nguyên đến vùng này, dùng chính sách “Hoa Việt dung hợp” (hòa lẫn người Hoa Hạ và người Lĩnh Nam). Năm 210 (TCN) Tần Thuỷ Hoàng chết, Tần Nhị Thế nối ngôi. Năm 208 (TCN), quận uý Nam Hải là Nhâm Ngao bị bệnh nặng, trước khi chết, căn dặn Triệu Đà: “vùng đất Nam Hải có núi chắn, có biển kề, rất thuận lợi cho việc dựng nước và phòng thủ chống lại quân đội từ Trung Nguyên”, và chính thức bổ nhiệm Triệu Đà nối quyền cai trị quận Nam Hải. Năm 208 (TCN), Triệu Đà đánh thắng Âu Lạc của An Dương Vương (Đánh thế nào? Xem Trọng Thủy-Mỵ Châu), sáp nhập Âu Lạc vào quân Nam Hải, lập ra nước Nam Việt. Năm 206 (TCN), Lưu Bang và Hạng Võ, nổi lên gọi là “Hán sở tranh hùng”. Từ đấy, Trung Nguyên lâm vào cảnh loạn lạc. Triệu Đà truyền lệnh các quan quân ở Lĩnh Nam, canh giữ phòng chống quân đội Trung Nguyên xâm phạm, và nhân dịp đó, giết hết những quan lại nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, cho tay chân của mình thay thấ các chức vụ ấy. Năm 203 (TCN), Triệu Đà đem quân đánh chiếm quận Quế Lâm, tự xưng là “Nam Việt Vũ Vương”. Nước Nam Việt lúc bấy giờ, bao gồm từ núi Nam Lĩnh (ngày nay là một giải từ bắc Quảng Đông, bắc Quảng Tây và miền nam vùng Giang Nam), phía tây đến Dạ Lang (Quảng Tây và phần lớn t. Vân Nam ngày nay), phía nam đến dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh VN ngày nay), phía đông đến Mân Việt (miền nam Phúc Kiến ngày nay). Thủ đô nước Nam Việt là thành Phiên Ngung (thành Quảng Châu ngày nay); Âu Lạc cũ chia thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Nước Nam Việt bấy giờ gồm: Quảng Đông, Quảng Tây và Nam Hải, thêm Giao Chỉ và Cửu Chân, thành một nước rất rộng lớn. Mỗi quận, đặt quan Điển Sứ lo việc chính trị, hành chính; quan Tả tướng lo việc quân sự, còn các quý tộc bản xứ vẫn được giữ thái ấp và trị dân như cũ. Con cháu An Dương Vương sống nơi Loa thành vẫn được trọng hậu, giữ chức Vương (như Tây Vu vương). Sau khi Lưu Bang bình định toàn cõi Trung Nguyên, lập ra nhà Tây Hán. Năm Ất tỵ (196-TCN), Hán Cao Tổ cử Lục Giả sang chiêu dụ Triệu Vũ vương. Lúc bấy giờ Nhà Triệu đã ra đời được 12 năm, nhà Hán 11 năm. Trong cuộc gặp gỡ sứ Hán như sau: Lục Giả vốn là chính khách ngoại giao lỗi lạc, trước thái độ xem thường sứ Hán của Triệu Vũ Vương, Lục Giả vẫn bình tĩnh: “Nhà Vua hẳn rõ Hán đế bây giờ đã bình định được toàn cõi Trung Nguyên, thế lực ra sao khỏi bàn. Mồ mả và bà con của nhà Vua ở cả châu Chân Định, nay nhà Vua không chịu thụ phong, không tiếp sứ, cái hại trước mắt hẳn nhà Vua cũng trông thấy...” Vũ vương thấy sứ giả nói năng mềm dẻo, nhưng lợi hại, nên mỉm cười: “Tiếc thay ta không khởi nghiệp ở Trung Quốc!”. Như vậy Triệu vương người kiêu hùng, nhưng nhẫn nhịn, vì Hán còn mạnh hơn Nam Việt, đành thần phục nhà Hán. Sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang và Hán Huệ Đế Lưu Doanh mất. Lã Hậu nắm quyền, Lã Hậu ra lệnh cấm vận với nước Nam Việt. Nước Trường Sa (thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay) ở phía bắc của Nam Việt, là một nước chư hầu nhà Hán. Triệu Đà nghĩ rằng: “Lã Hậu có thể tiến quân qua Trường Sa để xâm chiếm Nam Việt”. Nên Triệu Đà tuyên bố độc lập, ra khỏi nhà Hán, tự xưng “Nam Việt Võ Đế” và cất quân đánh nước Trường Sa, chiếm được mấy huyện biên giới của Trường Sa. Lã Hậu cử đại tướng Long Lự Hầu và Chu Táo, đem quân đánh Triệu Đà. Quân lính Trung Nguyên không quen khí hậu nóng nực ở miền nam, bị bệnh hoạn rất nhiều, nên không tiến quân qua nổi dãy núi Nam Lĩnh. Năm 180 (TCN), Lã Hậu chết, việc đánh Nam Việt bỏ hẳn. Lưu Hằng nối ngôi hiệu Hán Văn Đế, sai người tu sửa mồ mả cha ông Triệu Đà và ban chức vụ và của cải cho bà con Triệu Đà còn ở lại đất Hán; rồi sai Lục Giả, làm chức Thái trung Đại phu, đến Nam Việt du thuyết. Lục Giả thuyết phục được Triệu Đà nghe theo. Kể từ đó đến đời Hán Cảnh đế, Triệu Đà xưng thần, hàng năm đều có đoàn sứ đến Trường An của nhà Hán tiến cống. Tuy vậy, trong đất Nam Việt, Triệu Đà vẫn lấy danh hiệu Hoàng Đế. Năm 137 (TCN, thời Hán Vũ đế), Nam Việt Triệu Vũ Vương mất, thọ 121 tuổi; an táng ở Phiên Ngung (Quảng Châu). Sau khi Triệu Đà mất, con cháu làm vua Nam Việt được 4 đời nữa, cho đến năm 111 (TCN) Nam Việt bị nhà Hán xâm chiếm. *- Thiết nghĩ: Triệu Đà, có xem là vua chính thống của VN hay không? Thưa có. Vì lẽ Triệu Đà muốn nước Nam Việt độc lập, nên giết hết những quan lại nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, cho tay chân của mình thay thế, còn đối với các quý tộc bản xứ vẫn được giữ thái ấp và trị dân như cũ. Triệu Vũ Vương đã củng cố, sửa sang Nam Việt (gồm có Giao Chỉ và Cửu Chân). Thời Triệu Đà nông nhiệp phát triển mạnh mẽ, chăn nuôi khuyến khích, dùng sức trâu bò thay sức người để làm nông; nói rằng 2 Thái thú Tích Quan và Nhâm Diên dạy dân lễ nghĩa và làm ruộng; e sai chăng?! Vì việc này đã có từ thời Triệu Đà kia mà. Có người nêu rằng Triệu Vũ Vương tổ tiên ở châu Chân Định (Trung Quốc) nên không chính thống?! Như vậy ai là người Việt hiện nay, khẳng định rằng tổ tiên của mình khi xưa không ở đất Trung quốc?. Xin nhắc lại rằng: Nòi giống Bách Việt của chúng ta, khi xưa sống ở vùng đất phía Nam bờ sông Dương Tử (Trung Quốc), đất ở đấy khi xưa là đất của tổ tiên chúng ta, bị người Hoa Hạ cướp lấy. Ngoài ra, tổ tiên 5 đời nhà Trần cũng sống ở đất Mân (Phúc Kiến-Trung Quốc) đấy. Cảm niệm: Triệu Vũ Vương Kiêu hùng, mưu lược, một nhân tài Nam Việt tiếng tăm rộng đất đai Họ Triệu vẫy vùng, lưu sử sách Ngẫm nghiền chính thống, có chi sai?! NHÀ TRIỆU (207 - 111 TCN) 1. Triệu Vũ Vương (258-137): Triệu Đà rất tài giỏi, xưng Nam Việt Hoàng đế năm 183 (TCN), nhưng đến các đời sau thì kém cỏi. 2. Triệu Văn vương (137-125 TCN): Triệu Đà truyền ngôi cho cháu đích tôn tên là Hồ, con trai Trọng Thủy và Mỵ Châu, lấy hiệu Văn Vương. Văn Vương tính tình nhu nhược, lên ngôi được 2 năm thì bị quân Mân Việt (Phúc Kiến) xâm lăng miền biên cương, phải cầu cứu Hán triều, mới dẹp xong. Nhà Hán thấy Nam Việt yếu kém, muốn chiếm lấy. Hán Đế phái người qua bảo Văn Vương sang chầu. Nếu không đi được, phải cho con sang thay thế làm con tin. Văn Vương ươn hèn, cho Thái tử Anh Tề đi thay. Anh Tề ở luôn tại đất Hán trên 10 năm. Năm Bính thìn (125-TCN), Văn Vương mất, Anh Tề mới được trở về để nối ngôi. 3. Triệu Minh Vương (125-113 TCN): Khi Anh Tề ở Hán, có vợ lẽ là Cù Thị, sinh con trai tên là Hưng. Khi Anh Tề về nước làm vua, Cù Thị theo về Nam Việt. Minh Vương ở ngôi được 12 năm thì mất. 4. Triệu Ai Vương (113-112 TCN): Thái tử Hưng lên ngôi là Ai Vương còn non trẻ. Cù Thị làm Thái hậu thao túng triều chính. Hán triều thấy có cơ hội chiếm Nam Việt, bởi Ai Vương non nớt, mà chính sự lại do người đàn bà tầm thường. Hán Đế phái sứ giả An Thiếu Quý là tình nhân cũ Cù Thị, sang Nam Việt dụ Ai Vương sang chầu. Tể tướng Lữ Gia, biết Cù Thị và Ai vương sắp dâng Nam Việt cho Hán. Lữ Gia cùng các đại thần đem cấm binh vào giết sứ Hán, Cù Thị và Ai Vương, xong tôn Kiến Đức lên ngôi. Cảm niệm: Nhà Triệu Ai vương, Cù Thị trớ trêu lòng Thiếu Quý phỉnh phờ bán núi sông Non nước khó khăn, chua chát hận Thôi rồi! Nhà triệu ngậm ngùi trông! LỮ GIA (? - 111 TCN) Năm 113 (TCN) Thái tử Hưng lên ngôi, hiệu là Ai Vương, tôn Cù Thị làm Thái hậu. Hán đế thấy Nam Việt vua còn thơ ấu, người đàn bà tầm thường lại lèo lái việc triều chính, các quan không có người xuất sắc, nên có thể lấy Nam Việt không cần dụng binh đao. An Quốc Thiếu Quí xin nhận nhiệm vụ ấy, trước là được ôm ấp người tình cũ là Cù Thị, sau là hy vọng làm tròn nhiệm vụ của vua Hán mong muốn. An quốc Thiếu Quí dụ dỗ Cù Thị và Ai Vương đem Nam Việt dâng cho nhà Hán. Tể Tướng Lữ Gia biết được âm mưu của bọn chúng. Ông mật bàn với các quan, đem cấm quân vào giết Cù Thị, Ai Vương và sứ nhà Hán, đồng thời truyền hịch các nơi, hạch tội bán nước của mẹ con Cù Thị. Xong tôn Kiến Đức, mẹ là người Việt, là con trưởng Minh Vương lên ngôi, lấy hiệu là Triệu Dương Vương, được một năm, nhà Hán sai Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức đem 5 đạo quân xâm chiếm Nam Việt. Quân Nam Việt chống chọi không lại, yếu thế nên bị bại. Vua và Lữ Gia đều bị giết. Nhà Hán đổi Nam Việt ra làm 9 quận, gồm có: 1. Nam Hải (Quảng Đông) 2. Hợp Phố (Quảng Đông) 3. Uất Lâm (Quảng Tây) 4. Thương Ngô (Quảng Tây) 5. Nhật Nam (Nghệ Tĩnh) 6. Châu Nhai (Đảo Hải Nam) 7. Giao Chỉ (Bắc Bộ) 8. Cửu Chân (Thanh Hóa) 9. Đạo Nhĩ (Đảo Hải Nam) Nhà Hán đặt mỗi quận, một quan thái thú cai trị. Thái thú Tích Quang (Giao Chỉ) và Thái thú Nhâm Diên (Cửu Chân) dạy dân lễ nghĩa và cày cấy. Còn các thái thú khác của Tàu cai trị nước ta đều tham lam và tàn ác, bắt dân chúng tìm ngà voi, chim thú lạ nơi rừng thẳm và đồi mồi, ngọc châu dưới biển sâu, để dâng cho chúng. Cảm khái: Tể tướng Lữ Gia Ai vương, Cù Thị bán sơn hà Nước sắp tang thương, quá xót xa Vùng vẫy, nhưng thua vì thế yếu Đớn đau tang tóc, khó khăn qua! Nguyễn Lộc Yên Nguồn: http://vietbao.com/D_1-2_2-67_4-200780_5-15_6-1_17-7161_14-2_15-2/ |
End of Printable Version |